Có chính sách học bổng, trường đại học kỳ vọng ngành khoa học cơ bản sẽ khởi sắc

Trước thực trạng các ngành KHCB dần mất sức hút với người học, các chính sách học bổng, hỗ trợ sinh hoạt phí sẽ thu hút và giữ chân nhân lực CLC.

Trong bối cảnh thế giới không ngừng đổi thay bởi những bước tiến công nghệ và các thách thức toàn cầu, vai trò của các ngành khoa học cơ bản ngày càng trở nên thiết yếu.

Một trong những nội dung quan trọng trong Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đó là: “Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hóa học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học. Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực”.

Tại dự thảo Nghị định quy định chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược mà Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố có nêu các mức hỗ trợ cho từng đối tượng người học.

Cụ thể, đối với học viên chương trình kỹ sư, mức học bổng loại xuất sắc là 4.000.000 đồng/tháng; mức học bổng loại giỏi là 2.800.000 đồng/tháng. Thời gian hưởng học bổng tương ứng với kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa quy định trong quy chế của cơ sở giáo dục đại học, nhưng không quá 04 năm với chương trình đào tạo có tổng số tín chỉ dưới 150 và không quá 5,5 năm với chương trình đào tạo có tổng số tín chỉ từ 150 trở lên; đối với học viên chương trình tài năng hưởng gấp 2 lần mức bổng loại giỏi.

Đối với học viên cao học, mức học bổng là 5.000.000 đồng/tháng. Thời gian hưởng học bổng tương ứng với kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa quy định trong quy chế của cơ sở giáo dục đại học, nhưng không quá 02 năm.

Đối với nghiên cứu sinh, mức học bổng là 7.000.000 đồng/tháng. Thời gian hưởng học bổng tương ứng với kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa quy định trong quy chế của cơ sở giáo dục đại học, nhưng không quá 04 năm.

Khoa học cơ bản đang mất dần sức hút

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng Sơn - Trưởng khoa Khoa Sinh học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho biết: Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang rất chú trọng phát triển nghiên cứu ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như y tế, môi trường, nông nghiệp, khoa học công nghệ... dẫn đến nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực chất lượng cao có kiến thức chuyên sâu về khoa học cơ bản.

Trên thực tế, các ngành khoa học cơ bản bao gồm Toán học, Vật lý, Hóa học và Sinh học giữ vai trò then chốt trong việc cung cấp tri thức nền tảng về các hiện tượng tự nhiên, cũng như các quá trình biến đổi vật chất và tài nguyên. Chúng được gọi là "cơ bản" vì tạo ra hiểu biết nền tảng, mở rộng giới hạn nhận thức của con người, từ đó tạo điều kiện cho các ngành khoa học ứng dụng phát triển.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, số lượng người học theo đuổi các ngành khoa học cơ bản đang ngày một sụt giảm, và nếu cứ tiếp tục duy trì trong một thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Riêng đối với môn Sinh học, có thể thấy nhiều học sinh đang giữ tâm lý "e ngại" khi tiếp cận môn học này. Theo chia sẻ của thầy Sơn, nhiều học sinh hiện nay không lựa chọn môn Sinh học do thiếu định hướng nghề nghiệp rõ ràng, cũng như chưa có sự tư vấn sát sao từ nhà trường, giáo viên và phụ huynh. Các em thường chọn tổ hợp môn theo xu hướng đám đông, ưu tiên các môn được cho là dễ học, dễ đạt điểm cao hơn là dựa trên năng lực cá nhân và mục tiêu nghề nghiệp dài hạn.

Bên cạnh đó, tâm lý thi cử cũng khiến học sinh e ngại môn Sinh học vì cho rằng môn này khó, phải học thuộc nhiều. Nhiều em còn nhận thức hạn chế rằng học Sinh học chủ yếu chỉ để thi vào các ngành Y – vốn có mức điểm rất cao, dẫn đến việc bỏ qua môn học này vì cảm thấy không phù hợp.

Đồng thời, cách dạy đối với môn học còn thiên về lý thuyết, ít gắn với thực tiễn, trong khi hoạt động thực hành, thí nghiệm lại hạn chế do thiếu thiết bị, hóa chất và mẫu vật. Tất cả những yếu tố này khiến học sinh dần mất hứng thú với môn Sinh học và hạn chế lựa chọn theo đuổi ở những trình độ cao hơn.

 Ảnh minh họa: vnu.edu.vn

Ảnh minh họa: vnu.edu.vn

Tương tự như lĩnh vực Toán học – dù giữ vai trò then chốt đối với các ngành kỹ thuật và công nghiệp nhưng tại một số nơi, do nhận thức chưa đầy đủ về cơ hội nghề nghiệp sau khi ra trường, số lượng sinh viên theo học ngành này không nhiều.

Theo chia sẻ của Tiến sĩ Lê Anh Tuấn – Trưởng khoa Khoa Toán, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, trên thực tế, không ít học sinh ở bậc trung học phổ thông có năng khiếu về Toán nhưng lại chuyển hướng sang các ngành kỹ thuật/ứng dụng khi học lên đại học. Phần lớn các em lựa chọn những ngành này là vì nhìn thấy rõ cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp, cũng như mức thu nhập trong thị trường lao động khá hấp dẫn. Thực trạng này cũng thường xuyên xảy ra với những cử nhân Toán học muốn học tiếp sau đại học.

Nếu so với các ngành học đang hot khác, ngành Toán học ít được truyền thông rộng rãi về cơ hội và lợi ích mà sinh viên được hưởng khi theo học. Thực tế sự hỗ trợ về học bổng, kết nối doanh nghiệp để mở rộng cơ hội đầu ra cho sinh viên cũng chưa được quan tâm đúng mức. Chưa kể tỷ lệ giảng viên, nhà nghiên cứu Toán học giỏi ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn, phân bố lại không đồng đều. Giảng viên chưa có nhiều sự kết nối với cộng đồng khoa học trong nước và quốc tế, thậm chí nhiều trường đại học thiếu cơ chế đãi ngộ thu hút nhân tài do nguồn lực tài chính hạn hẹp.

Vì vậy, để thu hút học sinh, sinh viên theo đuổi lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ từ phổ thông đến đại học.

Theo thầy Lê Anh Tuấn, chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược chính là sự hỗ trợ thiết thực, vừa thu hút vừa phát triển được những đối tượng sinh viên tài năng.

Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục cần chú ý truyền cảm hứng cho người học từ sớm thông qua các mô hình học tập sáng tạo như STEM, học qua dự án, trải nghiệm thực tế và tăng cường hoạt động thí nghiệm tại phòng lab..

Để thay đổi tư duy xã hội, cần tích cực truyền thông về tiềm năng nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ để xóa bỏ định kiến “khó xin việc” sau khi ra trường.

Và cần hỗ trợ tài chính cho những bạn có hoàn cảnh khó khăn theo học các ngành khoa học cơ bản như ưu tiên vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp, miễn giảm tiền học phí, ký túc xá...

Đồng thời, hỗ trợ khởi nghiệp và nghiên cứu thông qua việc xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo trong các trường đại học, giúp sinh viên phát triển các dự án khoa học với đầu ra là những sản phẩm cụ thể. Có các gói tài trợ nhỏ để sinh viên từ năm 3 trở đi có thể thực hiện các đề tài nghiên cứu ứng dụng. Tăng cường hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp để tạo điều kiện thực tập cũng như nghiên cứu cho sinh viên.

Cuối cùng, cần có chính sách cam kết việc làm sau tốt nghiệp, đặc biệt là việc làm ở các viện nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ, nhà nước. Tăng thu nhập và cải thiện chế độ đãi ngộ cho các nhà khoa học trẻ, các kỹ sư giỏi công tác trong những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn.

 Tiến sĩ Lê Anh Tuấn – Trưởng khoa Khoa Toán, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn – Trưởng khoa Khoa Toán, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh: NVCC

Cần cú hích từ chính sách giáo dục và thị trường lao động

Trước thực trạng không nhiều người học chọn các ngành khoa học cơ bản, đặc biệt là trong bối cảnh giáo dục và thị trường lao động còn tồn tại nhiều rào cản, việc đầu tư hỗ trợ cho các lĩnh vực này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng Sơn, để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo đuổi khoa học tự nhiên, sự sống và công nghệ, trước hết cần đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục, đảm bảo tính đồng bộ, có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Hệ thống giáo dục phải mang tính mở, linh hoạt, có khả năng tự điều chỉnh và được quản lý hiệu quả.

Mặt khác, cần có chính sách thu hút, hỗ trợ về học liệu, cơ sở vật chất và điều kiện sáng tạo. Nhà trường phải gắn kết với doanh nghiệp để đào tạo sát thực tiễn, nâng cao chất lượng nhân lực. Đồng thời có chính sách thu hút chuyên gia quốc tế và Việt kiều về giảng dạy, xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, các chương trình trao đổi quốc tế để góp phần truyền cảm hứng cho sinh viên.

 Một giờ thực hành động vật của sinh viên Khoa Sinh học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: NVCC

Một giờ thực hành động vật của sinh viên Khoa Sinh học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: NVCC

Đánh giá từ thực tế, thầy Sơn cho rằng hiện nay, khi nguồn lực còn hạn chế, Việt Nam không thể đầu tư dàn trải cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Vì vậy, cần tập trung đầu tư có trọng điểm vào các chương trình đào tạo tài năng trong lĩnh vực STEM tại một số cơ sở giáo dục trọng điểm theo quy hoạch đến năm 2050, nhằm ươm mầm nhân lực chất lượng cao cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

"Trên thế giới, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đã có chương trình quốc gia đào tạo và thu hút nhân tài. Tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, dù nguồn lực còn hạn chế, nhà trường vẫn duy trì hiệu quả hệ đào tạo chất lượng cao ở các khoa khoa học tự nhiên và sự sống. Sinh viên hệ này là những em có năng lực vượt trội, được tuyển chọn kỹ lưỡng và đào tạo theo chương trình nâng cao.

Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của các em, rất cần sự đầu tư đặc biệt của Nhà nước nhằm tạo điều kiện học tập, nghiên cứu, trải nghiệm và hội nhập quốc tế. Chỉ khi có sự quan tâm và đồng hành của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, chúng ta mới có thể hoàn toàn kỳ vọng vào một thế hệ nhân lực trẻ, tài năng, góp phần đưa đất nước bứt phá trong kỷ nguyên mới", thầy Sơn bày tỏ.

Trong khi đó, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn lại cho rằng việc Nhà nước ban hành những chính sách học bổng hỗ trợ sinh viên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược sẽ tạo ra một đội ngũ nghiên cứu và ứng dụng đủ mạnh, giải quyết bài toán thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tuy nhiên, để các chính sách này thực sự hiệu quả, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng cần phải có những quy định minh bạch và toàn diện trong quá trình xét duyệt học bổng, không chỉ dựa vào điểm số mà còn đánh giá khả năng sáng tạo và tiềm năng nghiên cứu của sinh viên.

Cùng với đó, cần có một lộ trình dài hạn hỗ trợ người học từ lúc tuyển sinh, trong suốt quá trình học và cho đến khi ra trường, đảm bảo cơ hội nghề nghiệp, nghiên cứu chuyên sâu hoặc phát triển ứng dụng tại các tổ chức trong nước. Các chương trình đào tạo tài năng phải được thiết kế nghiêm túc, có đội ngũ giảng viên chất lượng và gắn liền với thực tiễn nghiên cứu, ứng dụng.

 Ảnh minh họa: Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Ảnh minh họa: Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Thứ hai, để gia tăng nguồn tài trợ học bổng, cần thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa các trường đại học và doanh nghiệp, nhấn mạnh lợi ích chung trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Chính phủ cũng cần áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp tài trợ học bổng, tạo động lực để các doanh nghiệp đầu tư lâu dài vào giáo dục.

Ngoài ra, để thúc đẩy các trường đại học tích cực triển khai và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo tài năng trong các ngành STEM, cần phải xây dựng một hệ thống cơ chế hỗ trợ đồng bộ, thực chất và lâu dài.

Về tài chính, Nhà nước nên có chính sách tài trợ riêng cho các chương trình tài năng, bao gồm miễn giảm học phí, đầu tư cơ sở vật chất hiện đại và cho phép trường giữ lại phần lớn nguồn thu để tái đầu tư. Đồng thời, cần khuyến khích doanh nghiệp tham gia tài trợ, đồng tổ chức đào tạo và kết nối việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp.

 Sinh viên khoa Toán, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế tham dự kỳ thi Olympic Toán học. Ảnh: NVCC

Sinh viên khoa Toán, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế tham dự kỳ thi Olympic Toán học. Ảnh: NVCC

Về mặt chính sách, các chương trình tài năng cần được trao quyền tự chủ trong thiết kế chương trình, tuyển sinh, mời giảng viên quốc tế, liên kết đào tạo và hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Sinh viên theo học chương trình này nên được đảm bảo cơ hội học sau đại học hoặc làm việc tại các viện nghiên cứu uy tín trong và ngoài nước.

Về nhân lực, cần có chế độ đãi ngộ phù hợp cho giảng viên, tạo điều kiện cho các chuyên gia đầu ngành tham gia giảng dạy, đồng thời kết nối với các viện nghiên cứu và doanh nghiệp để xây dựng đội ngũ mentor hỗ trợ học tập và định hướng nghề nghiệp. Song song đó, cần xây dựng hệ thống đánh giá riêng cho chương trình tài năng, bảo đảm chất lượng và tạo cơ sở cho việc công nhận giá trị bằng cấp. Việc minh bạch thông tin, công khai kết quả đào tạo cũng sẽ thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các trường.

Những thành tích nổi bật trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cần được ghi nhận thông qua hình thức khen thưởng cho trường và danh hiệu đặc biệt cho sinh viên tốt nghiệp, qua đó tạo thêm động lực học tập và khẳng định giá trị của chương trình.

ĐÀO HIỀN

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/co-chinh-sach-hoc-bong-truong-dai-hoc-ky-vong-nganh-khoa-hoc-co-ban-se-khoi-sac-post251532.gd