Cơ hội rộng mở cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng
Nếu được hỗ trợ đúng hướng, công nghiệp hỗ trợ năng lượng sẽ không chỉ là 'vệ tinh' của các dự án lớn, mà còn trở thành một ngành công nghiệp nền tảng mới góp phần nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, tạo giá trị gia tăng cao, và hiện thực hóa mục tiêu phát triển nền công nghiệp năng lượng xanh, hiện đại và bền vững của Việt Nam.

Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng”do Tạp chí Công Thương thực hiện
Doanh nghiệp tích cực tham gia cuộc chơi
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt đã từng bước khẳng định năng lực trong chuỗi cung ứng năng lượng. Một số đơn vị cơ khí đã làm chủ thiết kế, chế tạo và lắp đặt hàng loạt hạng mục quan trọng trong các dự án nhiệt điện, thủy điện, hóa dầu, năng lượng tái tạo. Riêng ở lĩnh vực điện gió, đã có những doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất trụ tuabin, kết cấu thép, nhà máy gia công cơ khí phục vụ lắp đặt ngoài khơi. Việc nội địa hóa từng phần các sản phẩm năng lượng không chỉ giúp giảm giá thành mà còn tạo động lực cho công nghiệp hỗ trợ phát triển theo hướng công nghệ cao, bền vững.
Là một trong những doanh nghiệp tiên phong tham gia vào chuỗi cung ứng ngành năng lượng, Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP (AGRIMECO) đã sản xuất, chế tạo sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho rất nhiều dự án điện trên cả nước, đặc biệt là các dự án thủy điện.

Ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP (AGRIMECO)
Ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, Chủ tịch HĐQT AGRIMECO chia sẻ, cách làm của Công ty là trước tiên phải hiểu rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại thiết bị để từ đó nắm chắc, làm chủ công nghệ từ thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công và xây dựng quy trình công nghệ đáp ứng chặt chẽ các tiêu chuẩn kỹ thuật của từng công trình, xây dựng quy trình vận chuyển và lắp đặt đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn thiết bị và hiệu quả.
Trong quá trình sản xuất, AGRIMECO luôn cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới và tiên tiến trên thế giới, từ khâu thiết kế đến công nghệ chế tạo và lắp đặt, đồng thời luôn có những sáng tạo của riêng mình để không lặp lại cách làm mà người khác đã làm.
“Kết quả này của chúng tôi cũng đã tiết kiệm cho rất nhiều công trình cả ngàn tỷ đồng và phát điện sớm 1-2 năm”, ông An cho hay.
Chủ động tiếp nhận chuyển giao, làm chủ công nghệ
TS. Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho biết, Viện đã tham gia lĩnh vực công nghiệp cho ngành năng lượng rất sớm và đạt được những kết quả nhất định.
Được giao nhiệm vụ nội địa hóa và tiếp nhận chuyển giao thiết kế trong chương trình cơ khí thủy công tại cơ chế 797/400 của Chính phủ, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã làm chủ được thiết kế toàn bộ các hạng mục cơ khí thủy công, góp phần đưa các nhà máy thủy điện phát điện sớm, với Thủy điện Sơn La là 1,5 năm, Thủy điện Lai Châu sớm 1 năm. Đồng thời, tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp trong nước như LILAMA, MIE, VINAINCON, AGRIMECO… với doanh thu hàng chục nghìn tỷ đồng và giúp hạ giá thành sản phẩm.
“Thời điểm trước khi có cơ chế 797/400, giá khoảng 3,8 - 4 USD/kg, nhưng sau khi làm chủ được thì tất cả giá thành xuống còn có khoảng 1,5 - 1,8 USD/kg”, TS. Vũ Văn Khoa cho biết. Hiện nay các sản phẩm cơ khí thủy công của Viện đã được xuất khẩu đi Nhật Bản, Campuchia.

TS. Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí
Viện Nghiên cứu Cơ khí cũng là đơn vị chủ lực để thực hiện Quy định 1791 về nội địa hóa, đã làm chủ hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống cung cấp than, hệ thống thải tro xỉ và góp phần giúp LILAMA làm chủ được phần hệ thống cung cấp nước tuần hoàn, hệ thống khói; Thiết bị điện Đông Anh (EEMC) làm được máy biến áp 500kV-467MVA - chiếc máy thời điểm đó rất là lớn.
Đặc biệt, với ba hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống cấp than và hệ thống thải xỉ thì tất cả các dự án ở Việt Nam các tổng thầu EPC nước ngoài đều tìm đến Viện Nghiên cứu Cơ khí và thực hiện thành công. Các dự án này đã mở đường cho Viện tiếp tục tham gia vào dự án Nhiệt điện Thái Bình 1, Vũng Áng 2, Nghi Sơn, Nghi Sơn 2, Quảng Trạch và Sông Hậu.
Trong lĩnh vực điện mặt trời, Viện đã xây dựng nhà máy để sản xuất những phao đỡ tấm pin mặt trời trên mặt hồ, cùng đối tác góp phần vào thành công của dự án điện mặt trời nổi trên hồ thủy điện Đa Mi với công suất lắp đặt 47,5 MWp - công suất lớn nhất của một dự án điện mặt trời nổi vào thời điểm dự án được COD là tháng 6/2019.
Trong lĩnh vực điện sinh khối, Viện đã có hợp đồng nguyên tắc với đối tác của Nhật Bản để làm toàn bộ hệ thống BOP cho các dự án điện sinh khối của đối tác Nhật tại Việt Nam.
Đặc biệt, Viện Nghiên cứu Cơ khi cũng đang tìm hiểu và chuẩn bị nắm bắt cơ hội trong các lĩnh vực như điện hạt nhân, điện gió, điện gió ngoài khơi.
“Theo quy hoạch điện VIII điều chỉnh thì đến năm 2050 chúng ta có tổng công suất lắp đặt điện gió ở phương án cao là đâu đó khoảng 90GW, tức là lớn hơn tổng công suất tại thời điểm này, một dung lượng thị trường rất lớn. Tại thời điểm này, chi phí phát triển một dự án điện gió ngoài khơi vẫn đang còn cao, khoảng 3 triệu USD/MW, nhưng tương lai khi chúng ta thiết kế và tham gia được nhiều vào chuỗi chế tạo thiết bị điện gió thì cũng góp phần giảm chi phí đầu tư trên mỗi MW, góp phần tăng quy mô phát triển ngành điện gió ngoài khơi”, TS. Vũ Văn Khoa phân tích.

Cơ hội rộng mở
Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam dự kiến đạt hơn 236.000 MW, gấp hơn 3 lần hiện nay, với tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 36%. Cùng với đó, nhiều dự án nhiệt điện, khí điện, thủy điện, điện LNG, điện gió ngoài khơi được triển khai trên khắp cả nước. Mỗi dự án đều cần hàng trăm nghìn chi tiết kỹ thuật, kết cấu thép, thiết bị cơ khí, cáp điện, van, máy biến áp, tua-bin, và hệ thống điều khiển - những sản phẩm mà ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước hoàn toàn có thể tham gia sản xuất.
Các chuyên gia nhận định, riêng mảng năng lượng tái tạo có thể tạo ra thị trường hàng tỷ USD cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong 10 năm tới. Việc sản xuất trụ tuabin, cánh quạt, thiết bị truyền dẫn, pin lưu trữ hay các cấu kiện cơ khí phục vụ nhà máy điện gió, điện mặt trời sẽ giúp doanh nghiệp trong nước mở rộng quy mô, tăng năng lực thiết kế và chế tạo, giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án điện năng lượng tái tạo hiện khoảng trên 35%, tuy nhiên hiện nay trong nước mới đảm bảo cung ứng được các công đoạn như lập dự án, lắp đặt, đấu nối. Về máy móc, thiết bị, mới cung ứng các sản phẩm có chi phí và giá trị gia tăng thấp trong tổng thành dự án.

Để thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng, nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành có đề cập đến vấn đề nội địa hóa các dự án năng lượng. Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 xác định một trong những giải pháp quan trọng về xây dựng ngành năng lượng và phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng là xây dựng các tập đoàn công nghiệp năng lượng trong nước có đủ khả năng làm tổng thầu EPC các dự án có quy mô lớn hiện đại và triển khai chiến lược phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng trong nước. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ lớn như sản xuất thiết bị điện, thiết bị năng lượng tái tạo. Có cơ chế, chính sách đột phá thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghiệp năng lượng, tăng nhanh tỉ lệ nội địa hóa và năng lực tự chủ trong toàn ngành năng lượng.
Bên cạnh đó, tại Nghị định 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, một số sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phục vụ lĩnh vực năng lượng đã được đưa vào danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển bao gồm linh kiện và phụ tùng của thiết bị điện, điện cao áp, thiết bị lưu trữ năng lượng; các cụm linh kiện, phụ tùng cho hệ thống thiết bị sản xuất điện năng từ năng lượng mới và năng lượng tái tạo…
Đặc biệt, xu hướng chuyển đổi xanh và phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050 đòi hỏi các nhà máy năng lượng mới đều cần các sản phẩm, linh kiện có tiêu chuẩn cao về công nghệ và môi trường. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp quản trị, áp dụng chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu từ các đối tác toàn cầu.
Nếu được hỗ trợ đúng hướng, công nghiệp hỗ trợ năng lượng sẽ không chỉ là “vệ tinh” của các dự án lớn, mà còn trở thành một ngành công nghiệp nền tảng mới góp phần nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, tạo giá trị gia tăng cao, và hiện thực hóa mục tiêu phát triển nền công nghiệp năng lượng xanh, hiện đại và bền vững của Việt Nam.











