Có nên giới hạn nguyện vọng xét tuyển?
Bộ GD&ĐT đang lấy ý kiến về việc giới hạn số lượng nguyện vọng đại học từ năm 2026, đặt ra câu hỏi: Bao nhiêu là hợp lý để vừa giảm tải hệ thống, vừa bảo đảm cơ hội cho thí sinh?

Chuyên gia tư vấn cho học sinh về ngành học. Ảnh: GDU
Giảm tải kỹ thuật hay lo mất cơ hội?
Tại Hội nghị Giáo dục đại học 2025, Bộ GD&ĐT công bố con số đáng chú ý: Hơn 852.000 thí sinh đăng ký xét tuyển, tạo ra tới 7,6 triệu nguyện vọng cho hơn 500 trường đại học, cao đẳng. Con số này được đánh giá rất lớn, gây áp lực lên hệ thống xử lý dữ liệu và công tác lọc ảo. Hệ quả, 16 trường đã phát sinh sai sót kỹ thuật, ảnh hưởng tới gần 1.000 thí sinh.
Ngoài phương án giữ nguyên (không giới hạn số lượng nguyện vọng), Bộ GD&ĐT đề xuất từ năm 2026 giới hạn nguyện vọng ở mức tối đa 5 hoặc 10. Theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, chủ trương không hạn chế nguyện vọng trước đây nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thí sinh nhưng thực tế lại gây khó khăn khi các em không xác định rõ ưu tiên. Việc hạn chế số lượng nguyện vọng sẽ giúp giảm số lần lọc ảo, xử lý dữ liệu nhẹ nhàng hơn, đồng thời nâng cao trách nhiệm thí sinh.
Đề xuất này tạo ra cuộc thảo luận sôi nổi trong giới chuyên môn và học sinh. Nguyễn Phúc An - học sinh lớp 12 tại TPHCM, lo lắng: “Nếu chỉ có 5 nguyện vọng, em không dám mạnh dạn chọn ngành mình yêu thích, mà phải cân nhắc an toàn hơn. Nhỡ rớt hết thì coi như mất cơ hội”.
Trái lại, Trần Giang Thanh - học sinh Trường THPT Phú Xuân (tỉnh Đắk Lắk), lại cho rằng giới hạn là cần thiết. “Bạn nào cũng có thể đăng ký vài chục nguyện vọng. Như vậy thì lọc ảo càng thêm rối, còn bản thân người đăng ký cũng không nghiêm túc. Ít nguyện vọng sẽ buộc chúng em suy nghĩ kỹ hơn và quyết tâm học tập hơn”, Thanh cho hay.
Từ phía phụ huynh, nhiều ý kiến cho rằng khống chế nguyện vọng chỉ hợp lý khi đi kèm việc nâng cao chất lượng hướng nghiệp. Bà Mai Thị Lan - phụ huynh có con học lớp 12 tại Trường THPT Lê Quý Đôn (phường Võ Thị Sáu, TPHCM), chia sẻ: “Nếu các con được tư vấn chọn ngành từ sớm, 5 - 10 nguyện vọng cũng đủ. Nhưng nếu thiếu định hướng, việc giới hạn có thể làm các con rơi vào thế bị động”.
Cũng theo phụ huynh này, nếu giới hạn nguyện vọng quá ít, nhiều bậc cha mẹ sẽ thêm lo lắng. “Các con còn mơ hồ về nghề nghiệp, đôi khi chọn sai. Tôi mong có khung hợp lý để các con vừa có cơ hội, vừa không đăng ký tràn lan”, bà Lan nói.

Tân sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia TPHCM) trong lễ khai giảng năm học 2025 - 2026. Ảnh: USSH
Cân nhắc kỹ lưỡng, đa chiều
TS Mai Đức Toàn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh - Truyền thông Trường Đại học Gia Định, cho rằng việc giới hạn số lượng đăng ký nguyện vọng là cần thiết để tránh lãng phí và giảm việc đăng ký “ảo”.
“Hiện có thí sinh đăng ký cả chục nguyện vọng nhưng cuối cùng chỉ nhập học một nơi. Điều đó gây rối cho quy trình xét tuyển và lãng phí cả thời gian lẫn lệ phí. Nếu có quy định khung, ví dụ 1 - 3 nguyện vọng cho mỗi ngành hoặc mỗi trường, thí sinh sẽ chủ động hơn, còn hệ thống chung cũng gọn gàng, minh bạch hơn”, ông phân tích.
Ông Toàn cho rằng nếu áp dụng khung giới hạn như vậy, quá trình xét tuyển sẽ đơn giản hơn, giảm thiểu tình trạng “nguyện vọng ảo”, đồng thời buộc học sinh phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra lựa chọn. Đây cũng là cách để giáo dục tinh thần trách nhiệm, tránh việc đăng ký tràn lan dẫn đến nhiều hệ lụy cho cả thí sinh lẫn nhà trường.
Nhiều trường đại học hiện sử dụng 3 - 4 tổ hợp xét tuyển cho cùng một ngành. Nếu thí sinh đậu một tổ hợp nhưng rớt ở tổ hợp khác, có thể nảy sinh tình huống “rớt oan”. Khi đó, số lượng nguyện vọng nhiều lại không đồng nghĩa tăng cơ hội, mà đôi khi làm tỷ lệ trúng tuyển thực tế thấp hơn. “Giới hạn nguyện vọng buộc thí sinh xác định rõ ngành học, tránh đăng ký tràn lan. Về dài hạn, điều này còn rèn cho các em sự nghiêm túc và trách nhiệm trong lựa chọn con đường học tập”, TS Toàn nhấn mạnh.
Ở góc tiếp cận khác, ThS Phạm Thái Sơn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông Trường Đại học Công Thương TPHCM, cho rằng việc giới hạn nguyện vọng không thực sự cần thiết. Theo ông, cốt lõi của công tác tuyển sinh không nằm ở số lượng nguyện vọng ít hay nhiều, mà ở chất lượng đào tạo và uy tín của từng trường.
“Nếu trường đại học có chương trình tốt, giảng viên giỏi, tài liệu đầy đủ, sinh viên được hỗ trợ học tập và có cơ hội việc làm sau khi ra trường, thì các em học sinh giỏi sẽ tự khắc quan tâm và lựa chọn. Chúng ta không cần quá lo lắng về việc thí sinh đăng ký nhiều hay ít nguyện vọng, vì phần mềm lọc ảo hoàn toàn có thể xử lý khối lượng dữ liệu đó”, ThS Sơn nói.
ThS Sơn cũng bày tỏ quan ngại việc áp đặt một mức giới hạn cứng có thể tạo ra sự méo mó trên thị trường giáo dục. “Nếu chỉ cho phép 5 hay 10 nguyện vọng, phần lớn thí sinh sẽ ưu tiên nộp vào các trường tốp trên. Điều này có thể khiến các trường địa phương hoặc những trường đang trong quá trình xây dựng thương hiệu gặp nhiều khó khăn hơn trong tuyển sinh. Chính sách như vậy, vô hình trung, sẽ làm giảm tính cạnh tranh công bằng giữa các cơ sở đào tạo”, ThS Sơn nhận định.
Thay vì đặt nặng chuyện giới hạn, ThS Sơn cho rằng, điều quan trọng hơn là tăng cường công tác tư vấn hướng nghiệp. “Cần nhiều hơn nữa các chương trình tư vấn tuyển sinh, giúp cho học sinh hiểu được năng lực bản thân mình và xã hội đang quan tâm đến điều gì, cần ngành gì, mức lương bao nhiêu và học ngành đó có khó khăn gì… Khi nắm được những thông tin đó, các em sẽ có lựa chọn đúng đắn và không còn phải đăng ký nguyện vọng tràn lan”, ông Sơn nói.
Theo Bộ GD&ĐT, năm 2025 có 625.477 thí sinh hoàn thành xác nhận nhập học, tăng 13,82% so với năm 2024. Trong đó, riêng khối đại học là 613.335 em, chiếm 52,87% tổng số thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT (năm 2024 là 51,3%). Kết quả này cho thấy, công tác tuyển sinh đại học đợt chung năm học 2025 - 2026 cơ bản hoàn thành đúng kế hoạch.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/co-nen-gioi-han-nguyen-vong-xet-tuyen-post750611.html