Có Thông tư 03, ngân hàng hưởng lợi đến đâu?
Từ cuối 2020, nhiều ngân hàng đã dừng mở rộng danh mục nợ được tái cơ cấu do những lo ngại về quy định thời gian của Thông tư 01 không rõ ràng...
Như VnEconomy đã đưa tin, Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Đây được xem là tin vui đối với cả doanh nghiệp và ngân hàng.
THÁO GỠ KHÓ KHĂN
Tại Thông tư 01 ban hành năm 2020, Ngân hàng Nhà nước chỉ cho phép tái cơ cấu với các khoản nợ phát sinh nghĩa vụ từ 23/01/2020 đến sau 3 tháng từ ngày Thủ tướng công bố hết dịch.
Theo giới chuyên môn đánh giá, việc này đã gây khó khăn cho tổ chức tín dụng khi xác định các khoản nợ đủ điều kiện để tái cơ cấu, cũng như theo dõi và hạch toán trong kế toán khi ngày lấy mốc có thể không trùng với kỳ hoạch toán kế toán của ngân hàng.
Để khắc phục vấn đề, tại Thông tư 03 mới, Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung thêm các điều kiện để cho phép các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tái cơ cấu các khoản nợ còn lại đến hạn.
Cụ thể, các tổ chức tín dụng được phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ với các khoản nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ trong khoảng thời gian từ ngày 23/01/2020 đến hết năm 2021.
Ngoài ra, phía nhà điều hành vẫn giữ nguyên quy định thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ không vượt quá 12 tháng kể từ ngày tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu. Việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện đến ngày 31/12/2021.
Một khó khăn khác cũng đã được Thông tư 03 giải quyết đó là tránh cú sốc "lợi nhuận" cho các ngân hàng.
Hiện số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ sẽ được giữ nguyên nhóm nợ đã phân loại, không phải áp dụng nguyên tắc phân loại vào nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn theo quy định. Tuy nhiên, vào thời điểm kết thúc thời hạn tái cơ cấu, ngân hàng phải dùng một khoản tiền lớn để trích lập dự phòng rủi ro, theo đó lợi nhuận sẽ bị hụt đi đáng kể.
Để tránh tình trạng này, thay vì để ngân hàng tự chủ động trích lập thì nhà điều hành đã đưa ra một lộ trình cụ thể kéo dài trong 3 năm và buộc các ngân hàng thương mại phải tuân thủ.
Cụ thể, số tiền dự phòng cụ thể phải trích bổ sung là số tiền chênh lệch giữa dự phòng cụ thể phải trích lập đối với toàn bộ dư nợ khách hàng nếu không tái cơ cấu và số trích lập trên dư nợ được cơ cấu của khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Tỷ lệ trích lập này sẽ phải đạt tối thiểu 30% số tiền dự phòng cụ thể phải trích bổ sung, muộn nhất 31/12/2021, và tăng lên tối thiểu 60% và 100% lần lượt tại cuối 2022 và 2023.
DOANH NGHIỆP VÀ NGÂN HÀNG CÙNG VUI
Tại một báo cáo gần đây, Công ty Chứng khoán VnDirect cho rằng, việc ban hành Thông tư 03 sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc phục hồi kinh doanh cũng như giảm áp lực trích lập của các ngân hàng thương mại.
Đối với phía doanh nghiệp, việc bổ sung thêm các điều kiện để cho phép tái cơ cấu các khoản nợ sẽ hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất, khi các khoản vay được xếp vào diện được cơ cấu sẽ được gia hạn về thời gian trả nợ, làm giảm bớt áp lực chi phí tài chính lên doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi sản xuất sau dịch Covid-19.
Đối với phía ngân hàng thương mại, việc sửa đổi này sẽ có tác động tích cực nhiều hơn, cả trong ngắn và dài hạn.
Trong đó, danh mục nợ tái cơ cấu của các ngân hàng có thể tăng nhẹ trong 2021 do điều kiện để cho phép các khoản nợ tái cơ cấu được mở rộng. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng đến lợi suất tài sản của các ngân hàng là không đáng kể.
Thực tế cho thấy, từ cuối năm 2020, nhiều ngân hàng đã dừng mở rộng danh mục nợ được tái cơ cấu do những lo ngại về quy định thời gian của Thông tư 01 trước đó (chỉ cho tái cơ cấu lại các khoản nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ trong khoảng từ 23/01/2020 đến ngày liền kề sau 3 tháng khi Thủ tướng công bố hết dịch).
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cũng thể hiện điều này, đến giữa tháng 11/2020 các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoản trên 341.800 tỷ đồng dư nợ, không tăng nhiều so với con số 321.000 tỷ đồng đã thống kê vào giữa tháng 9.
Bên cạnh đó, VnDirect cũng nhìn nhận, việc bổ sung quy định phân bổ trích lập dự phòng nợ xấu dần trong 3 năm sẽ giảm bớt chi phí dự phòng cho ngân hàng, đặc biệt trong năm 2021.
"Thông tư 01 mới quy định các tổ chức tín dụng sẽ phải thực hiện phân loại và trích lập dự phòng theo thời hạn đã được cơ cấu, có nghĩa sẽ phải thực hiện trích lập như thông thường khi các khoản nợ tái cơ cấu hết thời hạn. Điều này tạo nên áp lực chi phí dự phòng cực lớn cho các ngân hàng thương mại có số dư nợ tái cơ cấu lớn (BIDV, VPBank) vào thời điểm các khoản nợ hết được gia hạn trả nợ lãi, cụ thể là trong năm 2021 theo lộ trình", nhóm nghiên cứu tại VnDirect đánh giá.
Tuy nhiên, với việc giãn bớt lộ trình trích lập dự phòng, chi phí dự phòng của các ngân hàng sẽ không tăng quá mạnh trong năm 2021, từ đó giúp các ngân hàng có dư địa cho thu nhập giữ lại để hỗ trợ tăng cường an toàn vốn, và thúc đẩy cho vay phục vụ kinh doanh sản xuất.