'Cởi trói' cho liên doanh, liên kết trồng rừng

Từ những vướng mắc tưởng như 'bó chân', mô hình liên doanh, liên kết trồng rừng đang đứng trước thời điểm chuyển mình để trở thành động lực kinh tế mới cho địa phương.

Diện tích rừng của người dân ở Gio Linh. Ảnh tư liệu: Hồ Cầu - TTXVN

Diện tích rừng của người dân ở Gio Linh. Ảnh tư liệu: Hồ Cầu - TTXVN

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho các ban quản lý rừng phòng hộ ở Quảng Trị không chỉ tháo gỡ những nút thắt kéo dài nhiều năm mà còn mở ra cơ hội huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội hóa phát triển rừng sản xuất. Từ những vướng mắc tưởng như “bó chân”, mô hình liên doanh, liên kết trồng rừng đang đứng trước thời điểm chuyển mình để trở thành động lực kinh tế mới cho địa phương.

Tháo gỡ pháp lý

Sau khi phương án tự chủ tài chính của Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn và Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Bến Hải được UBND tỉnh Quảng Trị phê duyệt, hai đơn vị đã đáp ứng đầy đủ điều kiện theo Nghị định 151/2017/NĐ-CP về quản lý, sử dụng tài sản công. Trên cơ sở này, các ban quản lý được phép sử dụng quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh, liên kết trồng rừng.

Thực hiện quy định mới, hai đơn vị chuyển hình thức sử dụng đất từ “Nhà nước giao đất không thu tiền” sang “thuê đất có thu tiền”, đồng thời triển khai cơ chế tự chủ tài chính. UBND tỉnh Quảng Trị cũng cho phép Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Bến Hải khai thác hơn 600 ha rừng trồng liên doanh hình thành từ các năm 2016 và 2018. Sau khai thác, các hợp đồng liên doanh tại diện tích này được chấm dứt theo quy định; nguồn thu được sử dụng đúng mục đích và là cơ sở xây dựng đề án liên doanh giai đoạn tiếp theo.

Tại Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn, hơn 400 ha rừng trồng liên doanh năm 2020 vẫn tiếp tục được duy trì hợp đồng do cây trồng chưa đến tuổi khai thác; dự kiến đầu năm 2026 sẽ tiến hành thu hoạch và chấm dứt hợp đồng theo quy định.

Trước đó, hai Ban quản lý rừng phòng hộ tại Quảng Trị đã “vượt rào” liên doanh trồng hơn 1.000 ha rừng không đúng quy định pháp luật. Cụ thể, giai đoạn 2016–2018, Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Bến Hải đã liên doanh trồng 604,6 ha rừng sản xuất; năm 2020, Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn liên doanh trồng hơn 400 ha. Theo hợp đồng, Ban quản lý góp đất, doanh nghiệp đầu tư chi phí; thời gian hợp tác 21–30 năm, lợi nhuận chia 30% – 70%.

Tuy nhiên, kết luận giám sát tháng 10/2023 của Thường trực HĐND tỉnh Quảng Trị xác định mô hình liên doanh, liên kết trồng rừng ở 2 ban quản lý rừng sai quy định. Theo Nghị định 151/2017/NĐ-CP, diện tích đất liên doanh phải thực hiện thuê đất trả tiền một lần; đồng thời đơn vị thực hiện phải là đơn vị sự nghiệp tự chủ chi thường xuyên và nguồn kinh phí không được lấy từ ngân sách. Vướng mắc này khiến nhiều diện tích rừng dù đã đến chu kỳ khai thác nhưng chưa thể triển khai. Nay, các thủ tục đã được điều chỉnh, mô hình liên doanh trồng rừng có cơ sở pháp lý để tiếp tục vận hành.

Đẩy mạnh mô hình

Diện tích rừng của người dân ở Gio Linh. Ảnh tư liệu: Hồ Cầu - TTXVN

Diện tích rừng của người dân ở Gio Linh. Ảnh tư liệu: Hồ Cầu - TTXVN

Sau khi chuyển sang cơ chế tự chủ, Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn rà soát, quy hoạch lại diện tích rừng và xây dựng Đề án “Sử dụng tài sản công là đất rừng sản xuất vào mục đích liên doanh, liên kết trồng rừng sản xuất”. Ông Thái Văn Sơn, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn cho biết, đơn vị đang quản lý hơn 7.700 ha rừng và đất rừng, trong đó có hàng nghìn ha thuộc quy hoạch phát triển rừng sản xuất. Trong bối cảnh nguồn vốn Nhà nước hạn chế, việc huy động vốn xã hội hóa thông qua liên doanh, liên kết được xem là giải pháp tất yếu để bảo đảm nguồn lực, hoàn thành nhiệm vụ và duy trì tài chính bền vững cho đơn vị tự chủ.

Theo ông Sơn, mô hình liên doanh giúp chủ động vốn đầu tư, tạo việc làm ổn định cho người dân, nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng thông qua áp dụng kỹ thuật tiên tiến, đồng thời góp phần tăng độ che phủ rừng, cải thiện môi trường và bảo đảm nguồn nguyên liệu gỗ ổn định.

Theo Đề án, khoảng 1.000 ha được chuyển từ rừng phòng hộ ít xung yếu sang rừng sản xuất, ưu tiên vùng đất bằng phẳng, gần giao thông và đường ranh cản lửa để thuận tiện khai thác. Việc chuyển đổi này không ảnh hưởng chức năng phòng hộ chung mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Ban quản lý góp vốn bằng quyền sử dụng đất; doanh nghiệp đầu tư toàn bộ chi phí cho hai phương án trồng rừng gỗ nhỏ (chu kỳ 5 năm) và gỗ lớn (10 năm). Lợi nhuận được chia theo tỷ lệ 30% cho Ban quản lý và 70% cho doanh nghiệp sau khi hoàn trả chi phí đầu tư. Ước tính nguồn thu lợi nhuận của Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn sau 10 năm liên doanh khoảng 13 tỷ đồng; sẽ đảm bảo một phần chi thường xuyên bắt đầu từ giai đoạn 2026 - 2030.

Tương tự, Ban Quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Bến Hải cũng đang xây dựng Đề án liên doanh trồng rừng sản xuất quy mô khoảng 1.600 ha. Ông Nguyễn Ngọc Hùng, Giám đốc Ban cho biết, mô hình trồng rừng sản xuất kết hợp phòng hộ sẽ tạo “mục tiêu kép” vừa nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng độ che phủ rừng và tăng thu nhập cho người dân, vừa góp phần giữ đất, giữ nước, chống xói mòn, bảo vệ và điều tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, đảm bảo cân bằng môi trường sinh thái và giảm nguy cơ lũ lụt ở vùng hạ lưu. Mô hình liên doanh, liên kết trồng rừng cũng giúp tạo việc làm ổn định cho người dân thông qua các hoạt động trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.

Cả hai Ban quản lý rừng phòng hộ Thạch Hãn và Bến Hải đều là đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên. Vì vậy, phát triển rừng sản xuất bằng nguồn vốn liên doanh, liên kết là yêu cầu cấp thiết nhằm ổn định tài chính và hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, phát triển rừng. Các đơn vị kiến nghị UBND tỉnh và cơ quan chức năng sớm xem xét, phê duyệt đề án để mô hình được triển khai đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Nguyên Linh/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/coi-troi-cho-lien-doanh-lien-ket-trong-rung/399995.html