Công dụng đặc biệt từ cao chiết cây tầm bóp

PGS.TS Trần Mạnh Hùng và cộng sự thử nghiệm thành công trên chuột về tác dụng của cao chiết cây tầm bóp trong điều trị giảm phì đại tuyến tiền liệt.

Cây tầm bóp chứa nhiều hoạt chất quý ức chế phì đại tuyến tiền liệt.

Cây tầm bóp chứa nhiều hoạt chất quý ức chế phì đại tuyến tiền liệt.

Cao chiết giàu hoạt tính

PGS.TS Trần Mạnh Hùng cho biết, tầm bóp là loại cây thân thảo sống hàng năm, nảy mầm từ hạt vào tháng 4 hoặc tháng 5, phát triển nhanh vào mùa Hè và giảm dần sau khi ra hoa, đậu quả. Tầm bóp có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ, ở Việt Nam được phân bố rộng khắp cả nước.

Đặc điểm vi phẫu của bột rễ, lá, thân và hoa được kiểm tra bằng kính hiển vi, cho thấy sự hiện diện của tinh thể canxi oxalate dạng cát ở tất cả các bộ phận của cây. Lỗ khí và lông tiết được tìm thấy ở lá và thân. Các mảnh mạch xoắn ốc, hình lưới và hình thang được tìm thấy dưới dạng bột.

Các nghiên cứu về tầm bóp (P. angulata) đã chứng minh sự đa dạng về tác dụng dược lý bao gồm chống nhiễm trùng, kháng viêm, điều hòa miễn dịch và kháng ung thư. Mặc dù nhiều nghiên cứu về tác dụng dược lý đã được thực hiện trên cây tầm bóp nhưng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trên bệnh lý phì đại tuyến tiền liệt lành tính (PĐTTLLT). Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tác động ức chế 5-α reductase in vitro của các cao chiết từ tầm bóp (Physalis angulata).

PGS.TS Trần Mạnh Hùng và cộng sự Trường Đại học Y Dược TPHCM đã tiến hành định danh dược liệu tầm bóp và mô tả về thực vật học; chiết xuất cao và khảo sát đặc điểm cao chiết; khảo sát tác động ức chế 5α-reductase in vitro của cao chiết.

Về chiết xuất cao, từ 2kg bột dược liệu của tầm bóp, sau khi chiết ngấm kiệt bằng ethanol 96%, thu được 197,20g cao toàn phần. Từ 60g cao toàn phần, tiếp tục lắc phân bố với các dung môi khác nhau để thu được 21,69g DCM (dichloromethan), 2,40g EA (ethyl acetat) và 8,08g các phân đoạn nBU (n-butanol). Các đặc tính của từng cao chiết/phân đoạn cũng được xác định.

Kết quả định lượng cho thấy cao toàn phần và phân đoạn DCM chứa cả steroid và flavonoid, trong khi các phân đoạn EA và nBu chỉ chứa flavonoid. Phân đoạn EA có hàm lượng polyphenol và flavonoid cao nhất trong các cao chiết khảo sát.

Nhóm nghiên cứu kết luận, thành phần chính của dược liệu tầm bóp là alkaloid, tannin, flavonoid và steroid. Trong khi phân đoạn DCM dương tính rõ rệt với các phản ứng định tính steroid thì hàm lượng flavonoid cao nhất trong phân đoạn EA. Trong số các cao chiết và phân đoạn khảo sát, phân đoạn EA cho thấy tác dụng ức chế đáng kể đối với 5-α reductas.

Ức chế phì đại tiền liệt tuyến

Theo nhóm nghiên cứu, PĐTTLLT đặc trưng bởi sự phì đại của các tuyến và mô liên kết trong tuyến tiền liệt. PĐTTLLT gây ra một số triệu chứng như kích thích bàng quang, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và tiểu đêm làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Gần đây, một số thành phần từ dược liệu đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong việc làm giảm các triệu chứng của PĐTTLLT như quả cây cọ (Serenoa repens, Sabal serrulata), hạt bí ngô (Cucurbita pepo), vỏ cây mận châu Phi (Pygeum africanum), rễ cỏ sao Nam Phi (Hypoxis rooperi), rễ cây tầm ma (Urtica dioica), lúa mạch đen (Secale cereale),… Thành phần có hoạt tính sinh học của những loại cây này là phytosterol, acid béo, flavonoid, dầu thực vật và polyshaccharid.

Kết quả nghiên cứu này bước đầu cho thấy cao toàn phần từ toàn cây tầm bóp làm giảm phì đại tuyến tiền liệt trên trên chuột nhắt, do vậy có thể thúc đẩy định hướng các nghiên cứu sâu hơn về Physalis angulata trong điều trị PĐTTLLT và các chất chịu trách nhiệm cho những hoạt động này.

Những năm 2004, các nhà khoa học nghiên cứu tại Viện khảo cứu các hợp chất thiên nhiên thuộc ĐH Y khoa Kaohsiung (Đài Loan - Trung Quốc) về hoạt tính chống ung thư gan của cây tầm bóp (Physalis angulata) ghi nhận: Các dịch chiết toàn cây bằng nước và bằng ethanol được đánh giá về hoạt tính chống ung thư gan trên các dòng tế bào Hep G2, Hep 3B, PLC/PRF/5, ghi nhận hoạt tính chống ung thư do gây ra hiện tượng tế bào tự hủy (apoptosis) phối hợp với những rối loạn chức năng của các mitochondria nơi màng tế bào bị ung thư. Tác dụng diệt bào này không xảy ra nơi các tế bào gan lành mạnh.

Theo quan niệm của Đông y, tầm bóp là loại thân thảo có vị đắng, tính mát không độc. Quả có vị chua, tính bình, tác dụng thanh nhiệt lợi tiểu, tiêu đờm. Tầm bóp có thể sử dụng đắp ngoài để trị nhọt, đinh độc, lấy cây tầm bóp tươi tắm cho trẻ trị rôm sẩy hiệu quả. Ngoài ra tầm bóp có thể sử dụng như thuốc chữa các bệnh viêm họng, đau yết hầu, bệnh tiểu đường và ung thư (tử cung, họng, phổi, đại tràng)…

Nhật Phong

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/cong-dung-dac-biet-tu-cao-chiet-cay-tam-bop-post692797.html