Công nghệ số - cơ hội mới cho văn hóa dân gian

50 năm sau ngày đất nước thống nhất, vấn đề nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản, giới thiệu các tác phẩm văn hóa, văn nghệ dân gian đã có nhiều thành tựu rực rỡ. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần thay đổi từ phương thức, cách làm để phù hợp với xu thế chung.

Phong phú đề tài, đa dạng cách tiếp cận

Tại hội thảo “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)” ngày 18/10, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, GS. TS. Lê Hồng Lý nhấn mạnh: văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975 phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy. Đây cũng là giai đoạn hoạt động phát triển nhất của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

Hội đã sưu tầm và khôi phục khoảng 1.500 di sản văn hóa dân gian (sử thi, dân ca, lễ hội, trò diễn, diễn xướng...); vinh danh hơn 700 nghệ nhân dân gian, những báu vật nhân văn sống của các dân tộc; đăng cai hoặc kết hợp với các địa phương, các chi hội tổ chức nhiều hội thảo; tư vấn cho các bộ ngành, địa phương về việc xác định các di sản văn hóa dân gian để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc…

Đặc biệt, trong số các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh và 655 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (tính đến tháng 6/2025) đều có sự đóng góp của các hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

Hội thảo “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)” sáng 18/10

Hội thảo “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)” sáng 18/10

Sự phát triển đông đảo và đa dạng đội ngũ sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian ở địa phương, các viện nghiên cứu, giảng viên đại học đã có sự phối hợp để tạo nên các công trình phong phú về đề tài, đa dạng về cách tiếp cận và nâng cao về chất lượng.

TS Nguyễn Thị Hải Anh, giảng viên Trường Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên bổ sung: “Các công trình nghiên cứu văn hóa dân gian đã đem lại cơ hội tiếp cận tốt hơn cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, các học sinh, sinh viên trong các trường học; giúp các em có được tư liệu, thông tin chuyên sâu từ các nhà nghiên cứu, các nhà sưu tầm, học giả trong nước và quốc tế”.

Thời kỳ này, các khía cạnh khác nhau của văn hóa dân gian như di sản, lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghệ thuật dân gian, văn hóa dân gian của các tộc người thiểu số, được thể hiện qua nhiều nghiên cứu của hội viên được công bố. Kết quả nghiên cứu còn được thể hiện qua các đề tài được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia, đề tài cấp Nhà nước, luận án Tiến sĩ; nhiều công trình đã được xuất bản thành sách, tiêu biểu như: Văn học dân gian Việt Nam, Nhận thức mới về văn hóa dân gian (Nguyễn Xuân Kính), Tái cấu trúc văn hóa của cư dân vùng biên trong bối cảnh phát triển thương mại Việt Nam - Trung Quốc (Nguyễn Thị Phương Châm - Hoàng Cầm), Dân ca nghi lễ vòng đời của người Ê Đê (Trương Bi - Vũ Dũng tuyển chọn và giới thiệu)…

Phát huy sức mạnh của công nghệ

Thừa nhận thực tế quá trình nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian 50 năm qua đã đưa lại nhiều thành tựu, tuy nhiên PGS. TS. Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia cho biết, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng Công nghiệp 4.0, vấn đề nghiên cứu văn hóa dân gian nói chung cần được mở rộng và tiếp thu các cách làm của khu vực và thế giới.

"Chúng ta không thể mãi đi theo lối cũ: điền dã, ghi chép tư liệu với tờ giấy và cây bút, rồi tập hợp để mang về in sách... Ngay từ năm 1997, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xây dựng ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể 54 dân tộc với 4 loại sản phẩm: bản text, bản ghi âm, bản ghi hình, hình ảnh tĩnh.

Vì thế, sau cả thời gian dài, chúng ta càng phải tích cực số hóa, xây dựng databank (ngân hàng dữ liệu), bởi đây là công việc rất cần thiết, nhằm quảng bá thành tựu nghiên cứu văn hóa dân gian không chỉ trong nước mà cả quốc tế…", PGS. TS. Nguyễn Chí Bền chia sẻ.

Cần xây dựng ngân hàng dữ liệu trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian. Ảnh: Tú Uyên

Cần xây dựng ngân hàng dữ liệu trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian. Ảnh: Tú Uyên

Điều phải quan tâm nhất, theo PGS. TS. Nguyễn Chí Bền, khi đã xây dựng được ngân hàng dữ liệu, phải phát huy được hết sức mạnh của nó.

Bản thân người đi sưu tầm, nghiên cứu cũng cần đổi mới cách thức, phương pháp ở chỗ coi mình như thành viên của cộng đồng, tránh hiện tượng giả văn hóa dân gian, công bố công trình đã từng được giới thiệu; chú ý đến các phương tiện nghiên cứu, cách lưu giữ loại hình nghệ thuật; vấn đề bản quyền... Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức cho việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian.

Đồng quan điểm, PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn, Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam, cũng khẳng định, trong kỷ nguyên số, nhà sưu tầm, nghiên cứu và quản lý văn hóa, văn nghệ dân gian ngoài ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo như một “cánh tay nối dài" cho tiến trình phục dựng các tác phẩm nghệ thuật; phải có những nghiên cứu hàn lâm để định vị giá trị tác phẩm.

"Nhiều tác giả trong nước cũng đi khắp các châu lục, cập nhật các phương pháp nghiên cứu mới, tích hợp, liên ngành, để cho ra đời các công trình khảo sát, nghiên cứu chuyên sâu, các thể loại truyện kể - diễn xướng, hệ thống đề tài và nội dung tác phẩm với tư duy nghệ thuật và đặc điểm thi pháp căn bản… Điều đó chứng tỏ những bước đi ngoạn mục trong hoạt động khảo sát, sưu tầm, xuất bản di sản văn hóa, văn nghệ dân gian cần được khuyến khích, đúng với nhu cầu và xu hướng chung của thế giới", PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn nhấn mạnh.

Hương Sen

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/cong-nghe-so-co-hoi-moi-cho-van-hoa-dan-gian-10390961.html