Công nghiệp hỗ trợ: Những nút thắt và khuyến nghị của chuyên gia

Công nghiệp hỗ trợ có vai trò rất quan trọng song tại Việt Nam, ngành này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vậy đâu là giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển đột phá?

Nút thắt của các ngành chiến lược

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội trong gần 40 năm đổi mới, trên nền tảng mô hình sản xuất gia công xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn chiếm vai trò chủ đạo, đặc biệt trong các ngành sản xuất chiến lược (điện tử, điện máy, cơ khí chế tạo, dệt may, da giầy…), tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý thuận lợi, cơ cấu lao động trẻ và chi phí ở mức trung bình thấp, cùng nền chính trị ổn định, chính sách ngày càng thông thoáng, thuận lợi, nhất là quyết tâm cải cách hiện tại.

Tuy nhiên, trong bối cảnh rủi ro an ninh phi truyền thống gia tăng cùng những thách thức từ chiến tranh thương mại và công nghệ, mô hình tăng trưởng hiện nay dần bộc lộ hạn chế, thiếu tính bền vững. Nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cả về giá trị xuất khẩu lẫn giá trị gia tăng, trong khi khu vực kinh tế trong nước phát triển chậm, năng lực cạnh tranh còn thấp. Đặc biệt, sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu vẫn hạn chế do năng lực sản xuất nội tại chưa đủ mạnh, nhất là ở các ngành công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Ảnh: VGP

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Ảnh: VGP

Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, tại Việt Nam, khái niệm về công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ nhìn chung xuất hiện khá muộn do quá trình hội nhập chậm và thiếu chọn lọc dòng vốn FDI. Đến nay, các chính sách, định hướng về phát triển công nghiệp tại Việt Nam đã tương đối đầy đủ, cập nhật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, cụ thể như: Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/2/2011 về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ; Nghị định 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Nghị định 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ…

TS. Cấn Văn Lực cho rằng, có thể thấy, cùng với sự phát triển công nghiệp, các chính sách của Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thời gian qua đã đạt được kết quả nhất định. Theo đó, số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã gia tăng, đặc biệt trong chuỗi cung ứng cho các ngành sản xuất chủ lực, như dệt may, da giày, điện tử và công nghiệp chế biến nông sản.

Hiện nay, cả nước khoảng 5.000 doanh nghiệp chế biến tham gia cung cấp linh kiện phụ tùng cho các ngành ô tô và cơ khí; theo đó, có khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã tham gia chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, mà còn có thể xuất khẩu. Đặc biệt, một số tập đoàn lớn, như Viettel, Vingroup, Hòa Phát, Vinamilk... đã phát triển mạnh mẽ, trở thành đầu tàu dẫn dắt trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo và dịch vụ cảng biển… giúp Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất - dịch vụ toàn cầu”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.

Doanh nghiệp Việt cần vươn lên trong chuỗi giá trị

Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhưng hiện trạng phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt trên các khía cạnh: Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất chiến lược; hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu; đóng góp của khu vực trong nước trong xuất khẩu; mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ nhất, tỷ lệ nội địa hóa một số sản phẩm chủ lực vẫn còn thấp, sự tham gia của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, nhiều lĩnh vực công nghệ cao còn phụ thuộc vào nhập khẩu.

Xây dựng công nghiệp hỗ trợ mạnh là giải pháp then chốt để Việt Nam thúc đẩy công nghiệp chiến lược, tăng giá trị nội địa và tăng trưởng bền vững. Ảnh: VGP

Xây dựng công nghiệp hỗ trợ mạnh là giải pháp then chốt để Việt Nam thúc đẩy công nghiệp chiến lược, tăng giá trị nội địa và tăng trưởng bền vững. Ảnh: VGP

Theo đó, tỷ lệ nội địa hóa chung của Việt Nam năm 2024 đạt 36,6%, ở mức trung bình thấp trong khu vực, chỉ cao hơn một số nước như Myanmar (30,8%), Bangladesh (23,3%), Lào (12,4%)…; nhưng thấp hơn nhiều đối thủ cạnh tranh chính khác như Trung Quốc (67,1%), Thái Lan (58,4%), Ấn Độ (53,3%), Indonesia (49,3%), Malaysia (38,5%)… Trong đó, tỷ lệ này ở nhiều ngành công nghiệp quan trọng vẫn ở mức thấp trung bình như điện, điện tử (27%), cơ khí chế tạo (25 - 30%), dệt may, da giầy (45 - 55%)...

Nhìn chung, các ngành công nghiệp này của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu và linh kiện nhập khẩu (chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc…). Sản phẩm linh phụ kiện do Việt Nam sản xuất thường chỉ là chi tiết đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình hoặc thấp, giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm (như bao bì, tem nhãn, linh kiện nhựa, khung vỏ, nguyên liệu nông sản…).

Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ cao chủ yếu do doanh nghiệp FDI cung cấp. Tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành sản xuất chiến lược nói trên còn ở mức thấp có thể kéo theo nhiều rủi ro khác như “hàng trung chuyển”, không đáp ứng tiêu chí của các FTA, có thể bị đánh thuế cao.

Tuy nhiên, một số ngành chiến lược, thế mạnh của Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa tương đối cao, như nông sản - thực phẩm chế biến (>85%), nhựa, bao bì, hóa chất (60 - 80%), thép, vật liệu xây dựng (70 - 90%)… Trong đó, doanh nghiệp Việt Nam đã tiến lên làm chủ gần như toàn bộ chuỗi, xây dựng được hệ thống nhà máy nội địa lớn, sản phẩm đầu ra chiếm lĩnh thị trường trong nước và một phần xuất khẩu.

Mặc dù vậy, những ngành này còn cần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, truy xuất nguồn gốc, đồng thời nâng cấp và phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh trong các ngành này”, TS. Cấn Văn Lực nhận định.

Thứ hai, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu ở mức thấp so với các nước trong khu vực, trên thế giới, cụ thể: Theo WTO (2024), tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của các ngành sản xuất chiến lược Việt Nam nhìn chung ở mặt bằng khá thấp so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.

Cụ thể trong ngành điện, điện tử (ngành xuất khẩu thế mạnh chiếm 33,1% xuất khẩu của Việt Nam), hàm lượng giá trị gia tăng nội địa chỉ ở mức 26,9%, thấp hơn đáng kể Thái Lan (52,2%), Indonesia (61,2%), Ấn Độ (66%), Trung Quốc (75,3%) và Hàn Quốc (68,8%).

Ngành dệt may, da giầy cũng chỉ có hàm lượng giá trị gia tăng nội địa khoảng 33,9 - 35,8%, thấp hơn đáng kể tỷ lệ khoảng trên 60% của các đối thủ cạnh tranh. Đối với ngành gỗ và thực phẩm, đồ uống, tỷ lệ này của Việt Nam khá cao (lần lượt là 53,2% và 52,6%) nhưng vẫn thấp hơn mặt bằng chung các nước trong khu vực.

Tương tự, tỷ lệ này trong các ngành nhựa, cao su, phương tiện vận tải và phụ tùng, kim loại cũng ở mức thấp so với các nước. Do tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng thấp, nên dù xuất khẩu tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong GDP, khu vực kinh tế trong nước của Việt Nam cũng không được hưởng lợi quá nhiều.

Thứ ba, khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn đóng góp khá hạn chế trong xuất khẩu, đặc biệt trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Theo đó, đóng góp của khu vực kinh tế trong nước khá thấp (dưới 30%) và nhìn chung cải thiện không đáng kể trong giai đoạn 2016 - 2024.

Đặc biệt, tỷ lệ này là rất thấp đối với 2 ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là sản phẩm điện tử và linh kiện, máy vi tính, và điện thoại; máy móc thiết bị phụ tùng. Khu vực doanh nghiệp trong nước chỉ đóng góp lớn trong những ngành sử dựng tài nguyên thiên nhiên và có giá trị xuất khẩu nhỏ hơn.

Như vậy có thể thấy khu vực FDI đang nắm trên 70% tổng giá trị xuất khẩu và có vai trò quyết định trong các lĩnh vực xuất khẩu quan trọng của nền kinh tế trong khi các doanh nghiệp trong nước chủ yếu tập trung trong một số lĩnh vực có giá trị xuất khẩu thấp, phụ thuộc vào tài nguyên”, TS. Cấn Văn Lực cho biết.

Theo TS. Cấn Văn Lực, mặc dù có nhiều nỗ lực trong cải thiện tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành sản xuất chiến lược, tuy nhiên sự tham gia của khu vực trong nước vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, đóng góp vào xuất khẩu còn thấp, hàm lượng giá trị giá tăng trong nước trong xuất khẩu còn ở mức thấp so với khu vực và thế giới.

Thanh Bình

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/cong-nghiep-ho-tro-nhung-nut-that-va-khuyen-nghi-cua-chuyen-gia-419559.html