Công nghiệp phụ trợ: Động lực bứt phá trong giai đoạn mới

Việt Nam đang đứng trước cơ hội bứt phá nhờ làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu và nhu cầu tái cấu trúc sản xuất hậu đại dịch. Song để thời cơ trở thành động lực tăng trưởng, năng lực sản xuất nội địa phải được nâng cấp toàn diện, công nghiệp phụ trợ phải đủ sức đáp ứng thị trường, doanh nghiệp nội vươn lên tham gia các khâu giá trị cao – từ đó tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững và mục tiêu trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI.

Nguy cơ rơi vào “bẫy giá trị gia tăng thấp”

Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Song mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào gia công, lắp ráp giá trị gia tăng thấp đang bộc lộ giới hạn: tỷ lệ nội địa hóa sản xuất chung của Việt Nam mới khoảng 36,6% năm 2024 (theo Khảo sát của JETRO) – thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... Bên cạnh đó, theo WTO (công bố 11/2024 về số liệu đánh giá năm 2022), hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đơn cử trong ngành điện - điện tử (ngành thế mạnh chiếm 33,1% xuất khẩu của Việt Nam), hàm lượng giá trị gia tăng nội địa chỉ ở mức 26,9%, thấp hơn đáng kể so với Thái Lan (52,2%), Indonesia (61,2%), Ấn Độ (66%), Trung Quốc (75,3%)…

Ngoài ra, mức độ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của Việt Nam dù đã được nâng cao nhưng sự hội nhập vào chuỗi vẫn còn hạn chế. Cụ thể theo báo cáo nghiên cứu năm 2024 của WB, hầu hết các doanh nghiệp trong nước có xu hướng tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ truyền thống, xây dựng hoặc bất động sản, chứ chưa có khả năng tham gia vào các GVC (trực tiếp hoặc gián tiếp với tư cách là nhà cung cấp). Thống kê cho thấy trong năm 2023, chỉ có 18% doanh nghiệp có kết nối với các GVC, giảm 17 điểm % so với mức 35% năm 2009. Điều này khiến Việt Nam chỉ thu về một phần nhỏ giá trị gia tăng từ xuất khẩu.

Điều đó cho thấy, nếu không sớm nâng cấp nền sản xuất và phát triển công nghiệp phụ trợ, Việt Nam có nguy cơ rơi vào “bẫy giá trị gia tăng thấp”, phụ thuộc quá nhiều vào FDI và dễ bị tổn thương trước sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải nâng cao năng lực sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa, phát triển hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ mạnh, qua đó nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế và đảm bảo tăng trưởng bền vững trong giai đoạn 2026-2030 và xa hơn.

Nhìn tổng thể trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược và công nghiệp phụ trợ. Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2022 về công nghiệp hóa - hiện đại hóa; Nghị quyết 23-NQ/TW năm 2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định 879/QĐ-TTg năm 2024 về phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035… cùng các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân và khung pháp lý cho công nghiệp công nghệ số đã tạo hành lang thuận lợi.

Đáng chú ý, Nghị định 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ) có hiệu lực từ 1/9/2025 đã cập nhật chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, bổ sung ưu đãi thuế, tín dụng nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất linh kiện, phụ tùng. Điểm mới quan trọng là định nghĩa lại công nghiệp hỗ trợ bao gồm cả gia công và phụ liệu, mở rộng đối tượng ưu đãi cho cả dự án mới và mở rộng, yêu cầu có ít nhất một doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi, phân cấp thẩm quyền xác nhận giữa địa phương và Bộ Công Thương, đồng thời quy định hậu kiểm định kỳ hai năm một lần.

Những bước đi này góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó khoảng 30% đã tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Dù vậy, những kết quả này chưa tương xứng với tiềm năng. Liên kết doanh nghiệp nội với chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn còn yếu, chưa phát huy hết hiệu ứng lan tỏa về năng suất và đổi mới công nghệ. Hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của Việt Nam, như đã chỉ ra ở trên, nhìn chung thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực, làm giảm lợi ích thực sự từ tăng trưởng xuất khẩu.

Bài học quốc tế và những giải pháp trọng tâm

Những hạn chế này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Về khách quan, chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp FDI vẫn tập trung vào khâu gia công – lắp ráp, ít chuyển giao công nghệ lõi, kéo theo nhu cầu liên kết với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, phát thải, truy xuất nguồn gốc ngày càng cao khiến nhiều doanh nghiệp nội chưa kịp thích ứng. Cạnh tranh từ các nước có hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ phát triển cũng tạo áp lực lớn. Về chủ quan, Việt Nam còn thiếu một chiến lược công nghiệp tổng thể có tính hệ thống, các văn bản chính sách vẫn dàn trải, thiếu chọn lọc và chưa gắn với nguồn lực cụ thể.

Kinh nghiệm khu vực cho thấy chính sách công nghiệp tổng thể, hỗ trợ tài chính – công nghệ và kết nối doanh nghiệp nội với FDI là chìa khóa. Chẳng hạn, Hàn Quốc phát triển chương trình nhà máy thông minh, yêu cầu các tập đoàn lớn chia sẻ đơn hàng cho doanh nghiệp nhỏ, qua đó nâng cao năng lực toàn chuỗi. Nhật Bản và Thái Lan cũng áp dụng cơ chế hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và cơ sở dữ liệu nhà cung ứng để tăng tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp trong nước…

Theo TS. Cấn Văn Lực, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Việt Nam cần đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam. Trong đó, cần có chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026 - 2030 và giai đoạn tiếp theo gắn với hiện đại hóa hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, phát triển khu công nghiệp sinh thái, logistics xanh… và cần có nguồn lực cụ thể, lộ trình rõ ràng cũng như xác định ưu tiên cho một số cụm ngành chiến lược như bán dẫn, cơ khí chính xác, ô tô - xe điện. Các chính sách ưu đãi phải được thiết kế theo nguyên tắc có điều kiện, minh bạch, đo lường được hiệu quả và khuyến khích hợp tác công - tư để doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Chuyên gia này cũng cho rằng, chính sách thu hút FDI cần được điều chỉnh theo hướng chọn lọc và chất lượng, chỉ ưu tiên các dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, có cam kết chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, khuyến nghị không nên “ép buộc” doanh nghiệp FDI, như gắn điều kiện phê duyệt đầu tư với “phải chuyển giao công nghệ”, mà ưu đãi có điều kiện, tự nguyện - minh bạch như ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam; hạn chế thu hút các dự án chỉ sử dụng lao động giá rẻ, không tạo liên kết với doanh nghiệp trong nước; đảm bảo các dự án FDI đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững, thay vì chạy theo số lượng.

Một nội dung khác được chuyên gia nhấn mạnh là cần nâng tầm doanh nghiệp trong nước. Chương trình “Make in Vietnam” cần được thúc đẩy để doanh nghiệp không chỉ lắp ráp mà còn tự thiết kế, chế tạo sản phẩm. Nhà nước nên hỗ trợ đào tạo về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật, chứng nhận chất lượng và khuyến khích các thương vụ M&A để hình thành doanh nghiệp quy mô lớn đủ sức cạnh tranh.

Việc nghiên cứu thành lập quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và công nghiệp phụ trợ, cung cấp vốn trung – dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án sản xuất linh kiện, nguyên liệu chiến lược cũng cần triển khai sớm, đồng thời phát triển các kênh huy động vốn như trái phiếu doanh nghiệp và quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm giảm phụ thuộc tín dụng ngắn hạn ngân hàng.

TS. Đặng Đức Anh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược phát triển Trung ương nhận định, công nghiệp phụ trợ là một trong những ngành có dư địa rất lớn nếu được tổ chức và vận hành đúng cách. “Đây là mắt xích quan trọng giúp nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng tính tự chủ của nền kinh tế. Tuy nhiên, để phát huy hết tiềm năng, Việt Nam cần xóa bỏ các điểm nghẽn đang tồn tại trong thể chế, bao gồm cả về luật pháp, chính sách khuyến khích và thủ tục hành chính”, chuyên gia này nhấn mạnh.

Đỗ Lê

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/cong-nghiep-phu-tro-dong-luc-but-pha-trong-giai-doan-moi-170595.html