Công nghiệp văn hóa không chỉ là những sân khấu rực sáng
Nhắc đến công nghiệp văn hóa, nhiều người nghĩ đến những concert hoành tráng, sân khấu đèn led rực rỡ hay các show diễn triệu view. Nhưng nếu chỉ hình dung như vậy, chúng ta đang bỏ quên rất nhiều tiềm năng văn hóa khác. Đó là những giá trị đang âm thầm tồn tại trong làng nghề, trong đời sống cộng đồng, trong từng nếp văn hóa truyền thống của người Việt.

Hoạt động trải nghiệm ở các làng nghề truyền thống của các bạn trẻ. (Nguồn: Nét Việt Nam)
Ở nhiều vùng quê, làng nghề truyền thống, từ gốm, mây tre, lụa, dệt thổ cẩm đến làm nón, làm nước mắm, vẫn giữ vai trò gìn giữ bản sắc. Dù vậy, phần nhiều sản phẩm chỉ dừng ở mức thủ công, sản xuất nhỏ lẻ, phụ thuộc du lịch thời vụ.
Thực tế, ở cấp địa phương, hơn 1.800 làng nghề truyền thống đã được công nhận và xác định là nguồn lực phát triển công nghiệp văn hóa. Nếu được tổ chức lại theo tư duy công nghiệp văn hóa, tức là có thiết kế sáng tạo, có câu chuyện thương hiệu, có công nghệ tiếp thị và bản quyền rõ ràng… thì mỗi làng nghề đều có thể trở thành một doanh nghiệp văn hóa đúng nghĩa.
Ở Nhật Bản hay Hàn Quốc, những sản phẩm thủ công truyền thống như giấy washi, đồ gốm, vải nhuộm tự nhiên đã trở thành biểu tượng quốc gia, được xuất khẩu như tác phẩm nghệ thuật. Việt Nam hoàn toàn làm được như thế, nếu xem văn hóa làng nghề là một ngành sáng tạo, chứ không chỉ là nghề mưu sinh của người dân.
Nhiều vùng miền có phong tục, nghệ thuật, ẩm thực, lối sống rất đặc sắc, nhưng chưa được tổ chức thành sản phẩm du lịch có giá trị cao. Du lịch cộng đồng hiện nay vẫn loay hoay ở mức “nghỉ homestay, ăn cơm nhà”, trong khi lẽ ra có thể trở thành trải nghiệm văn hóa sống động theo hướng văn hóa hòa nhập.
Ở một số làng nghề, du khách có thể cùng nghệ nhân nặn gốm, nhuộm vải hay gấp nón, trải nghiệm trực tiếp cuộc sống và câu chuyện văn hóa địa phương, khiến mỗi chuyến đi trở thành hành trình vừa học vừa chơi đầy ấn tượng.
Nếu được đầu tư về hạ tầng, truyền thông và có sự tham gia của giới sáng tạo trẻ, du lịch văn hóa cộng đồng sẽ không chỉ là nguồn thu nhập cho dân địa phương mà còn là cách lan tỏa bản sắc Việt ra thế giới.
Vai trò của các bạn trẻ, những nghệ sĩ, nhà thiết kế sáng tạo không thể thiếu. Họ chính là cầu nối đưa giá trị truyền thống vào đời sống hiện đại, làm sống lại những câu chuyện xưa bằng ngôn ngữ mới, gần gũi với giới trẻ.
Một hướng khác là ứng dụng công nghệ vào bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống. Các nghệ sĩ trẻ ngày nay bắt đầu dùng công nghệ thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR), đồ họa 3D để tái hiện di tích, trình diễn múa rối nước, cải lương, tuồng cổ theo phong cách mới.
Đó chính là công nghiệp văn hóa theo tinh thần thời đại số, nơi giá trị cũ không bị mất đi, mà hồi sinh bằng ngôn ngữ mới. Tưởng như những nét văn hóa dân gian ấy chỉ dành cho lớp người lớn tuổi, nhưng khi được kể lại bằng công nghệ, chúng có thể chạm đến giới trẻ, lan tỏa rộng rãi không gian mạng, trở thành niềm tự hào và cảm hứng sáng tạo.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TTg ngày 28/8/2024 về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, trong đó quy định rõ việc hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thời trang, thiết kế, xây dựng cơ chế ưu đãi đầu tư.
Theo Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 vừa được ban hành, Chính phủ khuyến khích hình thành quỹ đầu tư, hợp tác công tư (PPP) và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sáng tạo. Điều cần thiết nhất hiện nay là thay đổi tư duy.
Công nghiệp văn hóa không chỉ là ngành giải trí cao cấp mà phải là cách tổ chức lại toàn bộ đời sống văn hóa, từ sản xuất, sáng tạo, phân phối đến tiêu dùng văn hóa. Khi nông dân, nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà thiết kế đều tham gia vào chuỗi đó, thì văn hóa mới thật sự trở thành nguồn lực kinh tế xã hội.











