Cuộc đổ vỡ tại hệ thống ngân hàng Mỹ được dự báo chưa kết thúc, Việt Nam cần chuẩn bị gì?
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần phải sớm có khung xử lý khủng hoảng để mỗi khi có khủng hoảng, sự cố không may xảy ra thì đã có công cụ, bộ khung để xử lý nhanh, gọn và bớt đi sự lan truyền những yếu tố tiêu cực ra thị trường.
Sau vụ phá sản của các ngân hàng Silicon Valley Bank (SVB) và First Republic, mới đây nhất PacWest, một ngân hàng của Mỹ cũng đứng trước nguy cơ sụp đổ khi người dân tiếp tục rút tiền. Trong báo cáo mới nhất, PacWest cho biết việc First Republic bị kiểm soát và bán lại vào đầu tháng 5 “đã làm gia tăng nỗi lo của thị trường và khách hàng về sự sụp đổ của những ngân hàng khác, bao gồm cả PacWest”.
Nhiều ngân hàng Mỹ hiện đang rơi vào một vòng lặp, khi những tin tức xấu làm tiền gửi tháo chạy và tiền gửi tháo chạy lại tạo thêm tin xấu. Trong đó, giá cổ phiếu lên xuống đã làm tăng nỗi sợ về sự an toàn của tiền gửi và càng đẩy nhanh việc rút tiền.
TS. Nguyễn Tú Anh Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương đánh giá, lãi suất quá cao là một trong những nguyên nhân gây ra làn sóng đổ vỡ ngân hàng tại Mỹ, thậm chí theo dự báo 186 ngân hàng tại Mỹ có nguy cơ sụp đổ, SBV là một trong những trường hợp điển hình bởi việc không quản trị được rủi ro trong môi trường lãi suất tăng cao.
Việc lãi suất quá cao làm cho giá tài sản của các ngân hàng này âm nếu tính theo định giá của thị trường. Điều này dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng quản lý yếu kém như SBV, đây là một trường hợp điển hình nắm giữ nhiều trái phiếu.
Khi lãi suất tăng cao trong một thời gian ngắn, giá trị những trái phiếu doanh nghiệp mà ngân hàng này nắm giữ giảm mạnh làm dấy lên mối lo ngại rủi ro của người gửi tiền, từ đó làn sóng rút tiền ồ ạt đã nổ ra gây sự sụp đổ của SBV, Signature Bank hay First Republic Bank.
Ba giai đoạn của cuộc đổ vỡ tại Mỹ
Trong bài viết mới đây, TS. Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên Đại học Bristol, Anh trích dẫn ý kiến của nhà kinh tế Mohamed El-Erian, Chủ tịch trường Queens’ College của Đại học Cambridge và Cố vấn kinh tế trưởng của tập đoàn Allianz về tình hình đổ vỡ ngân hàng ở Mỹ.
Theo ông Mohamed El-Erian, cuộc đổ vỡ này đang diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn 1 là việc tăng lãi suất quá nhanh sau khi hạ lãi suất và bơm tiền quá mức đã dẫn đến việc đổ vỡ của những ngân hàng quản lý kém như Silicon Valley và First Republic.
Giai đoạn 2 là giai đoạn lây lan. Do cách xử lý lúng túng đối với trường hợp Silicon Valley, những ngân hàng không quá tệ như PacWest và Western Alliance bị ảnh hưởng xấu.
Giai đoạn 3 là một đợt lây lan diện rộng và gây ra “rủi ro thu hẹp tín dụng tăng đáng kể” – một thuật ngữ khác là kiệt quệ tín dụng. Và nếu kiệt quệ tín dụng đột ngột sẽ phải đến lúc phải dùng thuật ngữ “khủng hoảng”.
Đánh giá về những tác động của cuộc sụp đổ liên tiếp trong hệ thống ngân hàng Mỹ đến Việt Nam, TS. Hồ Quốc Tuấn cho rằng, ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến thì chưa đáng kể.
Tuy nhiên, nếu tình hình khó khăn ở Mỹ và châu Âu kéo dài, nhiều hoạt động đầu tư vào Việt Nam có thể gặp khó khăn vì nhà đầu tư sẽ có ý định giảm thiểu rủi ro và ngồi chờ xem có phương án đầu tư nào tốt hơn không, hoặc muốn duy trì tiền mặt để phòng thủ cho doanh nghiệp của mình chứ không mở rộng đầu tư. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư mở rộng.
Một điều nên lưu ý là có dự báo rằng sau Mỹ và châu Âu tình trạng khó khăn có thể sẽ lan đến một số nền kinh tế như Hàn Quốc và Nhật. Lý do một số tổ chức tài chính và hoạt động xuất khẩu ở những nước này gắn chặt với Mỹ và châu Âu. Điều đó gợi ý rằng Việt Nam cần có chính sách linh hoạt để ứng biến khi xuất hiện những tình huống bất ngờ, ông Tuấn cho hay.
Bốn bài học rút ra cho Việt Nam
Nhìn từ làn sóng sụp đổ của hệ thống ngân hàng Mỹ, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia cho rằng, có 4 bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ vụ phá sản liên tiếp của các ngân hàng Mỹ.
Thứ nhất, đã đến lúc các ngân hàng trung ương và các cơ quan giám sát tài chính tiền tệ quốc gia của mỗi nước phải thường xuyên rà soát lại chính sách và mô hình để giám sát còn phù hợp với thị trường hay không?
Với hệ thống tài chính Mỹ rõ ràng, mô hình hiện nay không còn phù hợp. Như trường hợp SVB, lỗ hổng ở đây là việc cơ quan giám sát ngân hàng của bang chưa có những cảnh báo kịp thời.
Thứ hai, bản thân mỗi tổ chức tài chính luôn phải lưu ý đến hai mặt, một mặt là tăng trưởng và thứ hai là kiểm soát được rủi ro. Trong đó cần đa dạng hóa và quản lý các loại rủi ro chính, và cần phát triển bền vững.
Thứ ba và cũng là quan trọng nhất, Việt Nam cần phải sớm có khung xử lý khủng hoảng để mỗi khi có khủng hoảng, sự cố không may xảy ra thì đã có công cụ, bộ khung để xử lý nhanh, gọn và bớt đi sự lan truyền những yếu tố tiêu cực ra thị trường.
Thị trường tài chính vốn rất nhạy cảm, hiệu ứng tâm lý đám đông mạnh. Vì vậy, nếu không có những kịch bản, khung xử lý khủng hoảng để khoanh gọn vấn đề thì tác động tiêu cực sẽ lây lan rất nhanh và tạo ra một cuộc khủng hoảng.
Nhìn lại cuộc khủng hoảng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tâm lý đám đông cũng là một trong những yếu tố khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, rơi vào vòng xoáy, thị trường chứng khoán, bất động sản ngân hàng cũng bị ảnh hưởng liên thông.
Và cuối cùng, theo TS. Lực cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung pháp lý để kiểm soát rủi ro hệ thống đặc biệt là sự liên thông giữa tài chính,bất động sản và nền kinh tế thực.
Các cơ quan thanh tra - giám sát cần độc lập hơn, vai trò bảo hiểm tiền gửi cũng cần rõ nét hơn. Hiện nay, sự liên thông này khá phức tạp và rộng hơn so với trước đây, các nước cũng hiện cũng đang phải đi theo hướng này, ông Lực cho hay.
Còn TS. Hồ Quốc Tuấn thì nhấn mạnh, bài học rõ ràng nhất đó là Mỹ đã lơi lỏng trong việc kiểm soát các ngân hàng nhỏ sau khi thay đổi các điều luật giám sát chặt ngân hàng vào năm 2018.
Sau khủng hoảng 2007-2009, nhiều điều luật để kiểm soát an toàn NH ở Mỹ được đưa ra, nhưng khi đến 2018 thì lại được nới lỏng. Điều đó góp phần tạo nên sự thịnh vượng cho nhiều khu vực mạo hiểm của nền kinh tế Mỹ (như công nghệ), nhưng cũng tạo ra rủi ro.
Mặt khác, lãi suất thấp của giai đoạn trước tạo ra những khoản cho vay và đầu tư rủi ro, như trường hợp ở Mỹ và Trung Quốc.
"Tuy nhiên, nếu siết lại quá nhanh như ở Trung Quốc thì sẽ gây đình trệ nền kinh tế kéo dài và cuối cùng vẫn phải điều chỉnh, kích thích trở lại, nhưng vẫn không thấy khởi sắc còn nếu để nó lỏng lẻo quá lâu thì lại rơi vào tình trạng đổ vỡ hàng loạt như Mỹ hiện nay", chuyên gia Hồ Quốc Tuấn cho hay.