Cuộc gặp của đại đế Alexander với Người Ăn Cá trên sa mạc

Những ngôi nhà nguyên thủy được làm bằng vỏ ốc, vỏ sò và các tấm da căng trên khung xương sườn cá voi. Người Ăn Cá nghèo đến nỗi Vua Alexander thậm chí còn không thèm cướp bóc để tìm nguồn lương thực.

Gedrosia nằm giữa biên giới Iran và Pakistan ngày nay, là nơi nghèo nhất và hung bạo nhất trong tất cả các tỉnh của Đế quốc Ba Tư. Nơi đây chẳng có gì ngoài những dải đất bằng phủ đầy muối tự nhiên, hoang vu như cát sa mạc, xung quanh là các ngọn núi cằn cỗi đến nỗi không thể sản xuất nông nghiệp.

Chỉ có các lái buôn người Phoenicia đi theo sau đội quân là có vẻ ấn tượng trước những thứ có trong sa mạc. Những mộc dược cao bất thường mọc rải rác nhiều nơi tiết ra ra chất nhựa quý hiếm được họ chất lên những con vật chở hàng. Họ cũng gom về cỏ gừng mặc dù phần lớn chúng bị bước chân của các binh sĩ đi trước dẫm nát khiến mùi hương dịu nhẹ thoang thoảng trên đường.

Các binh sĩ ban đầu có thể dùng bữa tối với thịt thỏ bị mắc kẹt trong những bụi gai khi chạy trốn khỏi đoàn quân, vậy mà chẳng mấy chốc những món này cũng không còn. Vài người dân bản địa sống trong sa mạc Gedrosia tập trung dọc bờ biển và sống như những người nguyên thủy, một cuộc sống mà quân Macedonia chưa từng thấy bao giờ.

Họ được gọi là người Ichthyophagi hay Người Ăn Cá vì nguồn sống duy nhất của họ là những con cá nhỏ thu lượm được bên bờ và phơi khô dưới ánh Mặt trời. Họ để lông tóc mọc dài và không bao giờ cắt móng tay. Quần áo họ mặc được làm bằng da cá còn nguyên lớp vảy, những ngôi nhà nguyên thủy được làm bằng vỏ ốc, vỏ sò và các tấm da căng trên khung xương sườn cá voi. Người Ăn Cá nghèo đến nỗi Vua Alexander thậm chí còn không thèm cướp bóc để tìm nguồn lương thực.

 Tranh minh họa truyền thuyết Alexander đổ nước để chung cơn khát với quân lính. Ảnh: Pinterest.

Tranh minh họa truyền thuyết Alexander đổ nước để chung cơn khát với quân lính. Ảnh: Pinterest.

Nhưng khi không thấy dấu vết của Nearchus và hạm đội bên bờ biển, Vua Alexander bắt đầu tuyệt vọng. Không thể có đủ nguồn thức ăn cho quân đội nếu Nearchus không đến. Sau khi cạn lương thực, binh lính bắt đầu ăn các con vật chở hàng. Hoàng đế đã cử người cưỡi lạc đà nhanh chóng đem lệnh của ngài đến các tổng trấn vùng lân cận để tiếp tế cho ngài càng nhanh càng tốt. Thế nhưng khoảng cách quá lớn khiến họ không thể dễ dàng đáp ứng.

Khi nguồn nước cũng cạn, các binh sĩ hoàn toàn trông đợi vào những ốc đảo có thể tìm được nơi sa mạc, dù chúng rất hiếm và xa xôi. Khi nào tìm thấy một vũng nước, những người đầu tiên sẽ lao đến và uống mọi thứ họ có thể múc trong lòng bàn tay, rồi ngã bệnh vì uống quá nhiều và làm bẩn nguồn nước. Vì thế Vua Alexander đã đặt ra một quy định rằng mọi trại lính phải dựng cách nguồn nước ít nhất hai dặm và việc tiếp cận nguồn nước bị kiểm soát nghiêm ngặt.

Nhiều tuần trôi qua, binh lính bắt đầu ngã xuống vệ đường, từ hàng trăm đến hàng nghìn người, do bệnh tật, say nắng và đói khát. Nhiều người bỏ cuộc vì tuyệt vọng và không muốn rời khỏi chỗ ngủ. Sau khi đội quân rời đi, họ tụ tập lại và cố gắng theo dấu các chiến hữu đã đi trước nhưng hầu hết đã bị lạc trong sa mạc, số phận của họ không khác gì những người trước kia đã ngã từ trên tàu xuống biển.

Một đêm nọ, quân Macedonia dựng trại dưới một lòng sông đã khô cạn bên một dòng nước nhỏ chảy trên cát. Nhưng khi màn đêm buông xuống, nước bất ngờ ào xuống từ một cơn bão ở những ngọn núi phía xa. Lũ quét bất ngờ ập đến song phần lớn các binh sĩ đều chạy thoát, cho dù một số người chỉ kịp cầm theo vũ khí và bọc quần áo trên lưng. Trái lại, những người thường dân đi theo đoàn quân lại không may mắn như vậy. Hầu hết phụ nữ và trẻ nhỏ tự kéo mình vào chuyến đi như vào địa ngục này đã không kịp chạy thoát và bị nhấn chìm trong nước, thứ mà bấy lâu họ luôn khao khát.

Đến chặng cuối của cuộc hành quân, tướng lĩnh cũng như binh sĩ đều từ bỏ hy vọng có thể sống sót thoát ra khỏi sa mạc này, một số quân do thám đã tìm được một con lạch nhỏ chỉ đủ đổ nước đầy một chiếc mũ. Họ vô cùng biết ơn vì đã tìm được số nước ít ỏi này mà đem đến trước mặt nhà Vua, người cũng đang chịu cảnh đói khát như bao người khác.

Thế nhưng Hoàng đế biết quân lính của mình còn đang phải chịu đựng nhiều hơn những gì ngài đang trải qua. Vì thế, giống như lúc ở sa mạc Bactria bốn năm về trước, ngài lại từ chối uống nước khi những người khác không có để uống. Ngài lấy chiếc mũ đựng nguồn nước quý giá và đổ nó xuống đất trước toàn quân. Đối với những con người đang héo úa ấy, việc Hoàng đế dùng cách này để cùng chung hoạn nạn với họ còn có giá trị hơn số nước đang ngấm xuống cát kia. Họ rất cảm động và vui mừng, Arrian nói, cứ như thể là mỗi người trong họ đều đã uống cạn toàn bộ số nước ấy.

Sau đó, Vua Alexander đã dùng chút sức lực cuối cùng quay lại bờ biển để tìm nước và đến điểm hẹn với hạm đội. Không thấy các con tàu ở đó, nhưng họ có thể đào giếng dọc bờ biển để lấy nước và có đủ cho một tuần. Sau cùng Hoàng đế đành cay đắng mà thừa nhận hạm đội có thể đã bị lạc ở đâu đó bên bờ biển phía Nam không rõ dấu vết. Ngài đã hại Nearchus và kết án tử toàn lực lượng hải quân. Đội quân ngài dẫn qua sa mạc hai tháng qua cũng không khá hơn là mấy. Khoảng một nửa đã bỏ mạng trên cát sa mạc Gedrosia và gần như toàn bộ những người đi theo đã bị lạc đường.

Trong nỗ lực cuối cùng, nhà Vua đã dẫn quân đi về phía Bắc cách biển hơn một trăm dặm để đến thị trấn Paura tồi tàn ở biên giới, nằm trên con đường dẫn về Persepolis. Quân Macedonia hốc hác tiều tụy loạng choạng đi qua cổng thành có lẽ là cảnh tượng đáng sợ đối với người dân trong thành. Dù vậy họ vẫn tiếp đón trong hòa bình và cho quân Macedonia ăn uống nghỉ ngơi thật nhiều.

Chặng cuối cùng từ Paura đến Persepolis dài tới gần năm trăm dặm, song chốn đồng quê khô cằn này vẫn hứa hẹn có đủ lương thực và nước ổn định cho quân thần Macedonia. Một số tác giả cổ đại cho rằng Hoàng đế đã vô cùng nhẹ nhõm khi hoàn thành cuộc hành quân qua sa mạc Gedrosia đến nỗi ngài đã dẫn quân đi dọc đường giống như cuộc diễu hành của Dionysus, trên tay cầm ống sáo, người đầy những vòng hoa.

Nhà vua cũng tổ chức các lễ hội và các cuộc thi để ăn mừng họ đã vượt qua sa mạc. Họ thi múa hát, trong đó thái giám người Ba Tư Bagoas đã chiến thắng. Đây chính là một trong những người tình của nhà vua kể từ khi họ rời Persepolis vài năm trước. Sau khi thi tài, Bagoas mặc y phục chỉnh tề diễu hành qua nhà hát và ngồi bên cạnh Hoàng đế trước sự vui mừng của quân đội. Họ hô vang và kêu nhà vua hãy hôn người chiến thắng. Ngài đã vui vẻ làm điều đó.

Philip Freeman/Bách Việt Books-NXB Dân Trí

Nguồn Znews: https://znews.vn/cuoc-gap-cua-dai-de-alexander-voi-nguoi-an-ca-tren-sa-mac-post1539698.html