Cuộc kháng chiến chống Pháp qua câu chuyện của người lính già
Cựu chiến binh Trần Văn Tuyên năm nay đã 93 tuổi nhưng những câu chuyện về cuộc đời mình, về dân làng nơi ông sinh sống cuối những năm 1940, đầu những năm 1950, ông vẫn nhớ rõ.
Cựu chiến binh Trần Văn Tuyên sinh năm 1930, ở thôn Bắc Ngầm, xã Xuân Quang (huyện Bảo Thắng). Năm nay đã 93 tuổi nhưng ông vẫn nhanh nhẹn, tinh tường. Những câu chuyện về cuộc đời mình, về dân làng nơi ông sinh sống cuối những năm 1940, đầu những năm 1950, ông vẫn nhớ rõ.
Ông Tuyên quê ở thôn Cầu Thượng, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Kiến An (nay là thành phố Hải Phòng). Ngày ấy, quê ông nghèo xơ xác. Những ngôi nhà tranh vách đất dột nát, xiêu vẹo. Dân làng quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà lúc nào cũng trong cảnh nghèo. Nhiều khi mất mùa, hạn hán, dân đói khổ mà vẫn phải lo chạy vạy để đóng các loại tô, thuế. Lại thêm cả nạn mộ binh, thanh niên, trai tráng cứ đến độ mười tám, đôi mươi là thực dân Pháp bắt đi lính.
“Thời Pháp thuộc, cuộc sống người dân lầm than, khổ cực không biết bao nhiêu mà kể. Làng tôi ở miền xuôi, thi thoảng chúng lại đến phá, đến đốt, giết người rất dã man. Nhiều gia đình có người đi theo Việt Minh làm cách mạng, chúng hù dọa, bắt đi tìm gọi người thân về đầu quân cho chúng…”, cựu chiến binh chống Pháp Trần Văn Tuyên hồi tưởng.
Tháng 1/1949, vừa tròn 19 tuổi, chàng thanh niên Trần Văn Tuyên xung phong đi bộ đội, được đưa đi huấn luyện, sau đó tham gia chiến đấu ở đơn vị C1 -D84 - E238 (Đại đội 1, Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238, Quân khu 3), địa bàn hoạt động ở Kiến An và Bắc Giang. Với sức khỏe loại A, lại nhanh nhẹn, quả cảm, chiến sĩ Trần Văn Tuyên được giao nhiệm vụ làm trinh sát, sau đó chuyển sang làm lính bộ binh trực tiếp chiến đấu.
Đơn vị của ông Tuyên hoạt động trong vùng địch, phải hoàn toàn bí mật. Với kế sách “ngày của địch, đêm của mình”, ban ngày, ông cùng đồng đội trà trộn sang Thái Bình giả làm nghề buôn bán để che mắt địch, ban đêm lại vượt sông về Kiến An đi sâu vào vùng địch vận động người dân theo cách mạng, xây dựng cơ sở trong vùng địch, trừng trị những kẻ bán nước, hại dân.
Sau này, khi thời cơ cách mạng đến, đơn vị của ông Tuyên thực hiện nhiều trận đánh, nhằm tiêu hao sinh lực địch. Có những trận tập kích vào tàu chiến, vào kho vũ khí quân trang của địch hoặc tấn công thẳng vào đồn bốt địch; có trận đơn vị ông đặt bộc phá làm kho vũ khí quân dụng của địch nổ 5 ngày, 5 đêm mới dừng.
Ông Tuyên xúc động nhớ lại: Bộ đội ngày ấy quần nâu, áo vá, quân trang, quân dụng và vũ khí thô sơ, nhưng ý chí quyết chiến, quyết thắng thì ai cũng rực cháy. Những trận chiến ác liệt biết sẽ có nhiều mất mát, hy sinh, nhưng ai cũng sẵn sàng ra trận, sẵn sàng hy sinh…
Giữ gìn truyền thống cách mạng của gia đình
Mỗi khi nhắc đến những ngày tháng được chiến đấu cho tự do của dân tộc, đôi mắt ông Trần Văn Tuyên luôn rạng ngời niềm tự hào.
Gia đình ông Tuyên có 4 anh em trai đều tham gia hoạt động cách mạng, 1 người tham gia dạy học trong phong trào bình dân học vụ tại quê nhà, còn 3 người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Ông Tuyên tham gia cách mạng năm 1949, em út tham gia năm 1950, còn anh cả năm 1951. Với bọn tề ngụy, gia đình ông là một “ổ Việt Minh” cần trừ họa. Chúng thường xuyên đến thuyết phục bố mẹ ông Tuyên gọi con cái trở về hoặc chỉ nơi con mình hoạt động, hứa hẹn cho nhiều của cải. Mãi không dụ dỗ được, chúng dọa sẽ giết chết mọi người trong gia đình nếu con cái không ra hàng… Tuy nhiên, ủng hộ các con theo con đường cách mạng, bố mẹ ông Tuyên quyết không khai, ngược lại còn động viên các con tiếp tục vững tay súng. Đầu năm 1951, ngôi nhà của bố mẹ ông bị tề, ngụy đốt cháy với lý do: Diệt Việt Minh.
Năm 1953, trong một trận chiến ác liệt với giặc, anh trai cả của ông Tuyên đã anh dũng hy sinh. ông Tuyên cũng bị thương nặng ở chân trái khi đánh địch. Ông Tuyên bảo, lúc đó vào đầu tháng 9/1952, đơn vị ông được lệnh chủ động tấn công đồn địch thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang. Trong lúc hai bên đánh giáp lá cà ở khu vực cánh đồng, ông bị đạn bắn xuyên qua bắp chân lên đầu gối ở chân bên trái. Sau trận đánh đó, ông được đưa đi điều trị. Bình phục, ông tiếp tục trở về đơn vị cầm súng chiến đấu. Thời điểm này, các đơn vị bộ đội địa phương như đơn vị của ông Tuyên liên tục tổ chức nhiều trận đánh lớn cho đến Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954…
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương. Với những người dân đã trải qua kiếp nô lệ lầm than, với những người lính đã từng “nằm gai, nếm mật” thì đây là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao. Nhiều lúc tôi cứ ngỡ đang trong mơ...
Cựu chiến binh Trần Văn Tuyên
Sau ngày giải phóng, tháng 12/1954, ông Tuyên ra quân, trở về địa phương, tham gia công tác ở thôn, xã. Năm 1964, theo tiếng gọi của Đảng, ông lại xung phong lên Tây Bắc diệt giặc đói, giặc dốt, xây dựng quê hương mới tại xã Xuân Quang, huyện Bảo Thắng. Trên quê hương mới, ông tiếp tục là “lá cờ đầu” trên mặt trận sản xuất, công tác…
Với những công lao trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, ông Tuyên được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý, như Huy chương Chiến thắng hạng Hai, Huân chương Kháng chiến hạng Ba; Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai...
Sau này, tiếp nối truyền thống gia đình, trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, 2 con trai của ông Tuyên cũng đi bộ đội, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và lập được nhiều thành tích, góp thêm vào bảng vàng thành tích của gia đình…
Câu chuyện về một thời chiến đấu vì tự do, độc lập của Tổ quốc của cựu chiến binh Trần Văn Tuyên và những người thân trong gia đình ông là một trong hàng triệu câu chuyện của các cựu chiến binh. Đó là những minh chứng sinh động về thế hệ anh hùng của một đất nước đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” 69 năm trước.