Cựu binh Hà Tĩnh và những ngày không thể nào quên ở nhà tù Phú Quốc
Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng dòng ký ức của những ngày đấu tranh ngoan cường khi còn là lính biệt động Sài Gòn, rồi bị địch bắt giam ở nhà tù Phú Quốc vẫn vẹn nguyên trong trái tim người cựu binh Bùi Văn Đối (xã Hồng Lộc, Lộc Hà, Hà Tĩnh).
Người lính ngoan cường
Ông Bùi Văn Đối (SN 1944, thôn Đông Thịnh, xã Hồng Lộc, Lộc Hà) nhập ngũ vào tháng 2/1964, thuộc biên chế Sư đoàn 325; tham gia huấn luyện cùng đơn vị ở huyện Bố Trạch (Quảng Bình). Tháng 9/1964, ông cùng đồng đội hành quân vào Tây Nguyên chiến đấu; tháng 6/1965, ông được tuyển chọn và đưa sang Campuchia huấn luyện trong đơn vị đặc công. Đến tháng 12/1965, ông được điều động về Sài Gòn nằm vùng hoạt động với vai trò lính biệt động kết nối thông tin trong nội thành ra căn cứ và ngược lại.
Sau gần 2 năm hoạt động trong lòng địch, ông đã thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ, nắm bắt tình hình, chuyển nhận thông tin 2 chiều, góp phần giúp quân ta giành thắng lợi trong nhiều trận đánh. Ngày 16/6/1968, trong lúc thực hiện nhiệm vụ chuyển công văn từ căn cứ Bời Lời (Dầu Tiếng, Tây Ninh) vào nội thành Sài Gòn, ông bị địch phục kích và bắt giữ.
“Hôm đó, khoảng 10h đêm, tôi cải trang thành một người dân thường mang theo công văn tới điểm hẹn. Khi vừa đi tới gần chân cầu Bình Triệu 1 thì bị phục kích. Một tiểu đội của địch ở bên kia cầu liên tục xả súng về phía tôi, nhiều phát đạn trúng vào người, dù choáng váng nhưng tôi vẫn kịp cho mẩu giấy chứa tài liệu vào miệng nhai nuốt, đồng thời vứt khẩu súng ngắn được trang bị xuống sông…” - ông Đối nhớ lại.
2 tháng sau, khi hồi tỉnh, ông Đối mới biết mình đang được điều trị tại Bệnh viện Long Bình (cơ sở y tế của địch ở Sài Gòn lúc bấy giờ), với 18 phát đạn vào người, gây vỡ xương quai hàm, thủng dạ dày, thủng ruột… và phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật. Khi địch bắt đầu lấy khẩu cung, ông Đối nhớ lại trong lúc trúng đạn, vẫn còn mang trên mình giấy tờ ghi tên thật, quê quán và tên bố mẹ do đơn vị cấp lúc nhập ngũ, ngay lập tức kịch bản đối phó được chuẩn bị từ trước được ông áp dụng.
“Theo kịch bản được huấn luyện khi tổ chức cử vào hoạt động nằm vùng, tôi khai rõ quê quán, gia đình đúng như giấy tờ mà địch đã thu được. Riêng về thông tin đơn vị, tôi khai mình là lính ở một đơn vị bộ binh, trong quá trình chiến đấu bị lạc nên lang thang vào Sài Gòn” - ông Đối kể.
Với sự thống nhất trong lời khai và chứng cứ khi bắt, sau nhiều lần dùng các thủ đoạn tra tấn, lấy cung, quân địch không khai thác được gì ở ông Đối. Cuối tháng 12/1968, địch đưa ông ra nhà tù Phú Quốc.
Trong ngục tù vẫn không ngừng đấu tranh
Suốt hơn 4 năm (tháng 1/1969 - 2/1973) bị giam cầm tại nhà tù Phú Quốc cùng hàng nghìn chiến sỹ khác, ông Đối không ngừng đấu tranh và trải qua đủ loại cực hình tra tấn của giặc. Trong đó có 2 sự kiện khiến ông nhớ mãi, đó là việc bị phát hiện khi tổ chức đào hầm vượt ngục và đấu tranh tuyệt thực phản đối địch giết tù nhân vô cớ.
“Tháng 6/1969, tôi bị giam cùng với 100 anh em ở phòng giam thuộc khu tù binh A5. Lúc đó dù ở trong sự kiểm soát của địch nhưng tổ chức Đảng vẫn hoạt động bí mật trong tù. Tôi và anh Cao Viết Lượng (Thanh Hóa) cùng một chiến sỹ tên Bình được phân công phụ trách tổ đào hầm, trong đó, ông Lượng là tổ trưởng. Trong căn phòng chật hẹp, chúng tôi khoét sàn gỗ 40 x 60 cm, tất cả anh em thay phiên nhau dùng thìa ăn cơm giấu được đào từng thìa đất, cho vào ống tay áo, đất được phi tang bằng cách chuyền ra ngoài khi thay phiên nhau đi rửa chén bát… Cứ như thế ròng rã 2,5 tháng, chúng tôi đào được đường hầm 15m (dự tính 45m) thì bị địch phát hiện. Ngay lập tức chúng bắt người tra khảo cực kỳ dã man” - ông Đối nhớ lại.
Để giảm thiểu thiệt hại, theo sự phân công, ông Đối, ông Bình và ông Lượng đứng ra nhận trách nhiệm. Các cực hình tra tấn dã man được thực hiện như: bỏ vào thùng phi đựng nước đánh đến bật máu tai, đánh bằng roi đuôi cá đuối rách hết da thịt, rắc ớt bột vào các vết thương… nhưng kẻ địch vẫn không khai thác được gì, nên cuối cùng chúng giam ông Đối cùng 2 đồng đội vào chuồng cọp ròng rã 1 tháng trời.
Tháng 2/1970, phòng giam của ông Đối được chuyển về phân khu 8 (Nhà tù Phú Quốc), có khoảng 1.200 tù binh. Trong một buổi trưa khi ông Đối và mọi người đang nghỉ ngơi, một tên lính ngụy canh gác đã bất ngờ nã súng vào khu nhà giam, khiến 12 đồng chí hy sinh. Phản đối vụ việc, gần 1.200 tù binh đã đồng loạt biểu tình, buộc quản lý nhà tù phải giải trình. Không chấp nhận lời giải thích thoái thác của quản tù, các chiến sỹ đồng loạt tuyệt thực với yêu sách đề nghị bộ chỉ huy của địch lên tiếng. Ngày thứ 10 tuyệt thực, 6 đồng chí hy sinh, địch buộc phải thực hiện yêu sách, cử đại diện bộ chỉ huy từ đất liền ra đảo thừa nhận sai và hứa sẽ đảm bảo an toàn cho các tù binh, không để tái diễn việc giết người vô cớ.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Các chiến sỹ bị địch bắt giam cũng được trao trả. “Đằng đẵng trong nhà tù của địch không biết sẽ bị giết khi nào nên biết tin Hiệp định Paris được ký kết, chúng tôi vui sướng đến chảy nước mắt, chờ mong ngày trở về” - ông Đối nghẹn ngào.
Ngày 21/2/1973, ông Đối cùng đồng đội lên phi cơ C130, xuất phát từ Phú Quốc vào lúc 8h30“sáng. Tuy nhiên, mãi tới tận 1h30” sáng 22/2/1973 mới hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng. “Sau khi ở khu an dưỡng về, chúng tôi mới được kể lại, địch đã có ý thủ tiêu chuyến bay, gồm phi hành đoàn và 150 chiến sỹ. Tuy nhiên, phát hiện bất thường, chính quyền cách mạng của ta đã lên tiếng với tổ chức Hồng thập tự quốc tế can thiệp kịp thời, do vậy, chúng tôi sống sót” - ông Đối cho biết.
Mãi mãi xứng danh Bộ đội Cụ Hồ
Dù trở về với hàng chục vết thương trên người (hiện ông vẫn còn 17 mảnh đạn trong cơ thể), là thương binh nhưng sau thời gian an dưỡng, ông Bùi Văn Đối tiếp tục cống hiến cho cách mạng, đất nước. Cuối năm 1973, ông Đối chuyển ngành về làm công nhân tại Xí nghiệp Công nghiệp nhẹ Thủy tinh Đò Điệm (Thạch Hà); năm 1979, chuyển ra làm cán bộ văn phòng Ty Thương binh Nghệ Tĩnh (TP Vinh). Năm 1986, ông nghỉ hưu và về quê sinh sống tại xã Hồng Lộc.
Dù nghỉ hưu, ông vẫn nhiệt tình tham gia các tổ chức đoàn thể và các phong trào địa phương như: xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa… Năm 2014, ông là người khởi xướng khôi phục lại tuồng cổ hát bội ở thôn Đông Thịnh, đồng thời phối hợp với chính quyền thành lập CLB tuồng cổ. CLB có 15 thành viên do ông Đối làm chủ nhiệm đã phục dựng nhiều vở tuồng cổ nổi tiếng từ hàng chục năm trước, biểu diễn phục vụ Nhân dân trong các dịp lễ tết như: Tần Hương Liên; Thoại Khanh Châu Tuấn; Trưng Trắc, Trưng Nhị…
“Từ ngày rời xa chốn tù đày Phú Quốc, tôi đều luôn tâm niệm: Mình phải giữ vững, phát huy phẩm chất cao đẹp của người lính Cụ Hồ để xứng đáng với sự hy sinh của cha anh, đồng đội, bạn bè vì độc lập của dân tộc; để các thế hệ trẻ tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” - cựu binh Bùi Văn Đối tâm sự.