Đà Lạt, mimosa và tôi
Cách đây 100 năm, mùa hè năm 1893 bác sĩ Alexandre Yersin đã tìm ra cao nguyên Langbiang. Và chỉ 5 năm sau, một trạm khí tượng và khảo cứu nông nghiệp đã được lập ra ở Dankir, tiếp theo là các trạm khảo cứu lâm nghiệp Maline và Đran. Để trồng khảo nghiệm các loài cây của nước Pháp và các loài cây xuất xứ ở những vùng có điều kiện tự nhiên như Đà Lạt.

Ảnh minh họa
Một đồng nghiệp ở Pháp đã gửi cho Yersin giống Mimosa cùng với một số giống các loài hoa ở quê nhà. Để Yersin cảm thấy trên con đường khoa học gian nan, gập ghềnh mà ông đã lựa chọn, ông luôn có được những người bạn và cả nền y học Pháp ủng hộ. Yersin đã đưa các giống cây Mimosa và các giống loài hoa vào các trạm khảo cứu để tiện việc ươm trồng và chăm sóc.
Nhưng phải đến sau nhiều năm, khi có người chủ trương khảo nghiệm các xuất xứ Mimosa nhập nội chính thức từ các trạm Maline, Dankir, mới có được các kết quả, để có thể sản xuất cây con Mimosa hàng năm cung cấp cho thành phố Đà Lạt và một số vùng phụ cận. Mimosa thường được trồng trước các biệt thự, hoặc trồng thành từng đám trên triền đồi. Nó biểu trưng cho tình bạn chân thành và sự cảm thông. Có lẽ vì môi trường thiên nhiên và khí hậu của Đà Lạt, mà từ lâu nhiều người Pháp đã gọi thành phố này là “ Páris buổi chiều “. Còn người Đà Lạt thì gọi mùa hoa nở trên cao nguyên Langbiang là “ Mùa thu vàng hoa Mimosa “.
Ngày nay trên các triền đồi thuộc trạm khảo cứu lâm nghiệp Maline, thỉnh thoảng người ta vẫn còn gặp những đám Mimosa, trong đó còn vết tích của những cây cổ thụ. Mimosa không phải loài hoa cắm lọ, nó cần không gian rộng rãi để sáng lên sắc vàng cho mọi người chiêm ngưỡng.
Thường hoa Mimosa nở trong các tháng từ 10 đến 12 dương lịch, có khi kéo dài đến Tết Nguyên đán. Cũng có khi tùy thời tiết mà những cây Mimosa trồng ở đường Trần Hưng Đạo, đường Yersin, viện Pasteur, thác Cam ly đã sớm nở rộ hoa vàng. Mimosa sớm nở đã cùng các loại hoa khác mang đến cho người dân Đà Lạt cần cù, nhân hậu và du khách gần xa, say mê Đà Lạt ngàn hoa những niềm vui sắc màu tuyệt vời hiếm có. Cùng với nhạc sĩ Trần Kiết Tường với bài hát “Mimosa từ đâu em đến “. Một tấm long nặng tình của người nhạc sĩ đối với đất và người Đà Lạt. (*).
Theo các cứ liệu đã có, Đà Lạt và vùng cao nguyên Langbiang nguyên thủy, chỉ có người dân tộc thiểu số bản địa là các dân tộc K’ho, Lạch, Chil, Sre, Mạ, Churu, M’Nông, Raglay, S’Tiêng. Sau đó mới có người Việt, người Hoa, Từ các tỉnh thành miền xuôi như Quảng trị, Huế, Nam Ngãi Bình Phú, Khánh Hòa đến với Đà Lạt sớm nhất theo chương trình di dân thời đó. Tôi không phải là người dân Đà Lạt, tôi chỉ là người con xa lạc của xứ Huế đã đến Đà Lạt trước đây thời ông bà Nội, và hiện đang sống tại Phan Thiết, Bình Thuận cũ. Cái gì cũng có nguyên nhân khởi đầu của nó.
Mọi chuyện bắt đầu từ miền Trung nghèo khó, mưa gió bão bùng như câu hát “Quê tôi nghèo lắm ai ơi. Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn. Trời hành cơn lụt mỗi năm khiến đau thương thêm chất, thêm chồng người ơi”. Ông bà Nội của tôi đã khăn gói cùng đoàn người di dân của làng Phước yên, huyện Quảng Điền, cùng đến với xứ cao nguyên giá lạnh. Ngày trước, di dân thường đi thành từng làng, thành đoàn, thành toán, để đến được nơi lập nghiệp mới thì quần tụ với nhau trong một khu vực nào đó để bảo bọc, giúp đỡ lẫn nhau tìm kế sinh nhai.
Ban đầu số dân này ngụ cư tại ấp Ánh Sáng, phường 1 Đà Lạt (bên dưới hồ Xuân Hương). Sau do đất chật người đông nên tiếp tục dởi về làng Thái Phiên, phường 12 Đà Lạt (bên trong hồ Than Thở). Những người con của ông bà Nội tôi, có người ở ấp Ánh Sáng, có người ở làng Thái Phiên. Riêng ba tôi và một người em gái, sau một thời gian sống chung cùng gia đình, đã thoát ly theo kháng chiến, ba tôi được phân công trong nhóm phát triển phong trào cách mạng về miền xuôi của tỉnh Bình Thuận, dưới quyền trực tiếp chỉ huy của ông Trần Ngọc Trác, về sau là Chủ tịch UBKCHC tỉnh Đồng Nai Thượng. Nhóm công tác phát triển theo hướng Gia Bác, xuống Sông Quao, xuống Hàm Phú, Hàm Thuận, và đã gặp mẹ tôi là cán bộ phụ nữ ở Hàm Thuận.
Chúng tôi đã được sinh ra và trở thành dân Phan Thiết, Bình Thuận, khi cả nhà dời về đây sau năm 1954. Phần cô tôi ở lại công tác tại Đà Lạt, đến sau 1954 tập kết ra Bắc, cho đến năm 1975 mới trở về lại Đà Lạt. Cô tôi cũng đã lập gia đình và trong số những người con của gia đình cô, đã có 2 người cùng góp công sức xây dựng thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng. (Một người là Nguyễn Xuân Ngọc, nguyên giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh và một người là Nguyễn Xuân Tiến nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tỉnh ủy Lâm Đồng).
Năm 1965 tôi được 13 tuổi, ba tôi lần đầu tiên đã đưa tôi về thăm lại dòng họ, ông bà, cô chú. Ngày đó, tôi nhớ là đã đi bằng xe lửa, từ Phan Thiết lên Mương Mán, đi tiếp ra ga Tháp Chàm Phan Rang, rồi mới chuyển tàu đi Đà Lạt. Sáng ra là đến ga Đà Lạt, tôi thật sự choáng ngợp khi thấy những rừng thông xanh cao vút, đường xá lượn uốn vòng vèo, và trời thì rất lạnh, sương trắng giăng mắc khắp nơi. Đà Lạt đẹp nhất là đi đâu cũng thấy hoa nở, hoa đủ loại, hoa đủ kiểu dáng, có loại chưa từng thấy bao giờ. Đủ tất cả màu sắc, rực rỡ cả một vùng, bên trên xanh biếc những ngàn thông, gió reo vi vu trong nắng.
(* Theo Nguyễn Hoàng Bích)
Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/da-lat-mimosa-va-toi-391578.html