Đặc sắc nghệ thuật múa Xòe truyền thống của người dân tộc Thái
Nghệ thuật xòe Thái tượng trưng cho cái đẹp, chứa đựng các giá trị nghệ thuật vũ đạo, âm nhạc, ca hát, trang phục, ẩm thực và ứng xử văn hóa của cộng đồng người Thái.
Tại kỳ họp lần thứ 16 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra ở thủ đô Paris (Pháp), hồ sơ nghệ thuật Xòe Thái của Việt Nam được chính thức được công nhận danh hiệu di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Việc Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận "Nghệ thuật Xòe Thái" là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại mở ra cơ hội lớn, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật của loại hình múa truyền thống đặc sắc này.
Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông, nói đến người Thái là ai cũng nghĩ đến các biểu đạt văn hóa mang tính cộng đồng cao như xòe, cũng như nói đến xòe người ta biết đến là di sản của người Thái ở Tây Bắc.
Xòe mang tính biểu tượng thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan, tâm tư, tình cảm của người Thái, có ý nghĩa với đời sống tinh thần của người Thái ngày nay.
Nghệ thuật xòe Thái tượng trưng cho cái đẹp, chứa đựng các giá trị nghệ thuật vũ đạo, âm nhạc, ca hát, trang phục, ẩm thực và ứng xử văn hóa của cộng đồng người Thái.
Ngày nay, nghệ thuật xòe Thái đã trở thành biểu tượng của lòng hiếu khách, dấu ấn văn hóa tộc người, bản sắc văn hóa của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam...
Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Thái ở 4 tỉnh Tây Bắc của Việt Nam. Tiêu biểu ở các huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; huyện Mường Lay, tỉnh Điện Biên; huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Nghệ thuật múa Xòe có từ bao giờ thì không ai có thể chỉ rõ, chỉ biết từ xa xưa, người Thái Mường Lò đã có câu hát: “Không xòe không vui/ Không xòe cây ngô không ra bắp/ Không xòe cây lúa không trổ bông/ Không xòe trai gái không thành đôi.”
Vì thế mà chẳng cuộc vui, ngày hội nào của người Thái đất này có thể vắng bóng những điệu xòe, dù là ngày vui nhỏ của mỗi gia đình hay những ngày lễ lớn của bản làng, bởi "Anh không xòe thì hoa héo đi/ Em không xòe trời Xuân qua đi..."
Với người Thái, múa xòe như một phần cuộc sống, như cơm ăn, nước uống hằng ngày. Xòe không chỉ là món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào dân tộc Thái, mà đã trở thành nét văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Yên Bái, Thanh Hóa.
Xòe được hình thành và phát triển cùng với quá trình lịch sử hình thành bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng người Thái, gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt, thể hiện đời sống vật chất và tinh thần của người Thái.
Trong cuộc mưu sinh để tồn tại và phát triển, người Thái luôn cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, anh dũng đấu tranh chống lại thú dữ.
Mỗi khi hoàn thành một công việc trọng đại, chinh phục được thiên nhiên hay chiến thắng kẻ thù là thú dữ mọi người lại nắm tay nhau không phân biệt nam, nữ, già, trẻ và nhảy múa ăn mừng quanh đống lửa. Hoạt động ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần được nâng lên cả động tác lẫn ý thức, hình thành lên các điệu xòe.
Ngoài các điệu múa, như xòe quạt, xòe khăn, xòe nón, xòe quả nhạc, người Thái còn rất nhiều điệu xòe mang tên những sự việc, nội dung, đạo cụ, như xòe chan khon, xòe kếp phắc, xòe kếp bók…
Thống kê cho thấy, người Thái có đến trên 30 điệu xòe, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sáu điệu xòe cổ (sáu điệu xòe cơ bản). Đó là điệu xòe “Khắm khăn mơi lảu” - nâng khăn mời rượu; “Phá xí” - bổ bốn; “Đổn hôn” - tiến lùi; “Nhôm khăn” - tung khăn; “Ỏm lọm tốp mư” - vòng tròn vỗ tay và điệu “Khắm khen” - nắm tay.
Chỉ một động tác, một dáng đi, cách đứng, cách xếp đội hình, cách chuyển động cũng là những cung bậc sắc thái, những ý nghĩa khác nhau mà điệu xòe thể hiện.
Như điệu xòe “Nhôm khăn” sôi động, với chiếc khăn thổ cẩm rực rỡ quàng qua cổ, hai tay tung khăn theo nhịp trống thể hiện sự tươi vui, phấn khởi khi mùa màng bội thu; hay điệu xòe “đổn hôn” mang ý nghĩa, dù cuộc sống có lúc nghiêng ngả, sóng gió nhưng tình người vẫn vẹn nguyên.
Nhạc cụ dùng múa Xòe cổ gồm 1 trống, 2 cồng, 1 chũm chọe. Âm nhạc cho múa Xòe thể hiện quan điểm về thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa, khi tiếng trống là âm thanh của mặt đất, tiếng cồng là sự vang vọng của bầu trời, tiếng chũm chọe là biểu tượng “phồn thực” của muôn loài.
Nhịp điệu múa Xòe có 3 giai điệu lặp đi lặp lại theo tiếng nhạc là “tùng tùng rinh, rinh rinh tùng” để tượng trưng cho 3 vía là trời, đất, con người.
Ở giữa vòng Xòe của người Thái xưa được dựng lên một cây cột gọi là “cây xén xính” nghĩa là cây vạn vật, trên cây treo hình thù các con vật trên cạn, dưới nước, hình mặt trăng, mặt trời được đan bằng tre hoặc đẽo bằng gỗ. Về đêm có thể múa Xòe quanh đống lửa vừa làm tâm điểm của vòng xòe vừa lấy ánh sáng cho đêm xòe...
Điệu xòe giúp con người quên đi những mệt nhọc của cuộc sống thường nhật, để rồi sau hội xòe, trở lại với cuộc sống đời thường, con người thấy yêu lao động, yêu cuộc sống hơn.
Tham gia múa xòe, các đôi trai gái cũng được gần nhau hơn, có dịp để thể hiện tình cảm riêng tư của mình…
Nghệ thuật Xòe Thái đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2013.
Với những giá trị về tinh thần không thể phủ nhận qua thời gian, đến nay nghệ thuật Xòe Thái hiện vẫn đang được duy trì và phát triển, không chỉ trong cộng đồng dân tộc Thái mà còn có sức sống mãnh liệt và lan tỏa tới nhiều dân tộc khác tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Thời gian qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương có nghệ thuật Xòe đều tổ chức múa Xòe trong các sự kiện văn hóa, lễ hội truyền thống của địa phương, lồng ghép chương trình nghệ thuật trình diễn dân gian, trong đó có nghệ thuật Xòe Thái vào các chương trình ngoại khóa trong trường học.
Đây được coi là một trong những động lực quan trọng góp phần bảo tồn nghệ thuật múa dân gian cũng như những loại nhạc cụ được sử dụng để tôn lên cái hay, cái đẹp của múa dân gian nói chung và Nghệ thuật Xòe Thái nói riêng./.