Đại biểu Quốc hội: ĐH tự chủ tài chính không có nghĩa là tự túc nguồn kinh phí
Để giải quyết tốt nguồn nhân lực và chuyên môn học thuật, thì tài chính là điều kiện tiên quyết, song tự chủ tài chính không có nghĩa là tự túc nguồn kinh phí.
Việc thực hiện tự chủ của các trường đại học trong những năm qua bước đầu có kết quả nhất định, làm tăng tính chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập trong thực tiễn, trở thành thách thức lớn trong thực hiện tự chủ, khiến tiến trình thực hiện còn chậm và hiệu quả không cao.
Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Bùi Thị Quỳnh Thơ - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Tĩnh, trao đổi về nội dung này.
Cần đánh giá lại vai trò, vị thế Hội đồng trường sau chu kỳ 5 năm?
Theo Đại biểu Quốc hội Bùi Thị Quỳnh Thơ, những năm qua, chính sách tự chủ trong giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước có một vai trò quan trọng, giúp các cơ sở giáo dục đại học phát huy nội lực, khả năng sáng tạo, hoạt động có hiệu quả và từng bước đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14 của Quốc hội khóa XIV) là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước thực hiện quyền tự chủ trong: Học thuật, hoạt động chuyên môn; tổ chức và nhân sự; tài chính và tài sản; Gắn với các quyền tự chủ đó, các cơ sở giáo dục đại học phải có trách nhiệm giải trình.
Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Chính phủ cũng đã quy định chi tiết về Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học và hướng dẫn thi hành một số điều Luật số 34/2018/QH14.
Theo đó, với việc thể chế hóa thành các quy định, làm cho nhận thức về tự chủ đại học ngày càng rõ ràng, có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ hệ thống giáo dục đại học Việt Nam chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo về mọi mặt, cơ sở giáo dục đại học đã dần được trao quyền tự chủ.
Việc thực hiện tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học bước đầu có kết quả nhất định, làm tăng tính chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Kết quả mô hình thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP và triển khai thực hiện Luật số 34/2018/QH14, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP tại một số cơ sở giáo dục đại học, bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận, góp phần đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập dần với giáo dục đại học trên thế giới.
“Các trường tự chủ đã được giao nhiều quyền hơn trong các lĩnh vực, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính nên đã chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Theo đó, các trường đại học tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Về nhân lực, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp. Sự sắp xếp lại tổ chức đem lại những hiệu quả tích cực. Cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý hơn do lực lượng lao động trực tiếp (giảng viên) tăng lên, trong khi đội ngũ lao động gián tiếp (chuyên viên, nhân viên) giảm xuống. Các trường có chính sách cạnh tranh, thu hút giảng viên giỏi chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học. Tỉ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ ngày một tăng, từ 25% năm 2018 lên trên 31% năm 2021.
Tự chủ đại học cũng giúp các trường đại học đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Về tài chính, đến tháng 8/2022, có 32,76% trường đại học tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1), 13,79% trường tự bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 2). Về nâng cao năng lực tài chính của cơ sở, từ năm 2018 đến năm 2021, tổng thu của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đa phần tăng lên, tổng thu ngoài ngân sách Nhà nước cấp chi thường xuyên cũng tăng; thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý. Giảng viên thu nhập trên 200 triệu đồng/năm tăng từ 19,4% lên 31,34%; thu nhập trên 300 triệu đồng trở lên tăng từ 0,75% lên 5,97% sau 3 năm thực hiện tự chủ.
Thực hiện tự chủ về chuyên môn học thuật mở ngành đào tạo/chương trình liên kết đào tạo ở trường đại học là một nội dung quan trọng trong hoạt động tự chủ, bên cạnh việc mở ngành đào tạo mới một cách nhanh chóng hơn giúp các trường chủ động trong đào tạo, tận dụng cơ hội mở ngành đào tạo để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của xã hội, phát triển các chương trình liên kết đào tạo trong và ngoài nước, các trường đại học cũng tích cực điều chỉnh các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học, tăng quy mô các chương trình tiên tiến, chất lượng cao.
Các trường đại học ngày càng chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học công nghệ, từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trách nhiệm giải trình đã đẩy mạnh việc quy định các trường đại học phải thực hiện công khai, minh bạch; hệ thống cơ sở dữ liệu giáo dục đại học để cơ quan quản lý nhà nước giám sát cũng đang được triển khai;…” - Đại biểu Quốc hội Bùi Thị Quỳnh Thơ trích theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị tự chủ đại học năm 2022.
Nhìn nhận về thời cơ và thách thức đối với tự chủ đại học, Đại biểu Quốc hội Bùi Thị Quỳnh Thơ cho rằng: “Trước hết, về cơ hội: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ cao ngày càng cao. Với quy định các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn; tự chủ trong tổ chức và nhân sự; tự chủ trong tài chính và tài sản, đây sẽ là động lực để gia tăng cả về số lượng và chất lượng trong phát triển giáo dục đại học. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế, chuyển đổi số là những xu hướng quan trọng để giáo dục đại học tiếp tục có cơ hội phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu”.
Bên cạnh đó, tự chủ đại học cũng đứng trước rất nhiều thách thức, nữ đại biểu chỉ ra: “Hệ thống các cơ sở giáo dục đại học phát triển chưa đồng đều, vẫn còn rất nhiều cơ sở giáo dục đại học quy mô nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp và hoạt động kém hiệu quả.
Tự chủ giáo dục đại học một mặt giúp các trường đại học chủ động hơn trong việc quyết định một số vấn đề về chuyên môn, tài chính, nhân sự, nhưng mặt khác lại là thách thức trong vấn đề huy động nguồn lực tài chính, làm cho nhiều trường không mở rộng, phát triển được theo định hướng chiến lược phát triển của trường.
Cũng chính từ cơ chế tự chủ đã làm cho cạnh tranh giữa các trường đại học ngày càng gay gắt hơn, các trường đại học sẽ chạy theo những ngành đào tạo dễ tuyển sinh, làm mất cân đối trong chiến lược phát triển nhân lực quốc gia; chất lượng đầu vào và đầu ra của sinh viên, học viên, chất lượng giảng dạy không là mối quan tâm hàng đầu mà thay vào đó là nguồn thu, số lượng sinh viên, học viên có thể tuyển sinh được; đội ngũ giảng viên nhiều trường đại học phải thực hiện các nhiệm vụ tuyển sinh và chỉ tiêu giao khoán khác làm giảm động lực nghiên cứu; luồng chuyển dịch lao động có chất lượng cao từ các cơ sở giáo dục đại học công sang đại học tư hoặc khối tư nhân khác ngày càng gia tăng làm cho giảng viên có trình độ cao tại một số trường đại học thiếu hụt nghiêm trọng;…
Bên cạnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ hội đối với các cơ sở giáo dục đào tạo trong vấn đề hợp tác quốc tế, liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học thì đây cũng là thách thức không nhỏ đối với các trường đại học tự chủ.
Với cơ chế tự chủ tài chính, buộc các trường đại học phải tăng học phí và giá các dịch vụ khác, làm cho chi phí phải nộp của sinh viên, nhiều trường đại học trong nước chi phí ngang bằng với một số cơ sở giáo dục đại học tại nước ngoài, dẫn đến tình trạng học sinh Việt Nam tốt nghiệp trung học phổ thông ra nước ngoài học tập ngày càng gia tăng.
Ngoài ra, cũng chính học phí các cơ sở giáo dục đại học gia tăng và vấn đề đào tạo tại nhiều trường đại học chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, làm cho một bộ phận không nhỏ học sinh chuyển sang học nghề với chi phí thấp hoặc được hỗ trợ một phần học phí, nhanh chóng tốt nghiệp và đi làm”.
Về mặt chính sách, Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ cũng chỉ ra một số “rào cản” đối với tự chủ đại học: Vẫn còn sự chưa thống nhất giữa Luật Giáo dục đại học và một số luật chuyên ngành khác trong việc điều chỉnh các hoạt động giáo dục đại học, làm cho các công cụ chính sách để thực hiện các nội dung tự chủ vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều trường đại học khó có thể chủ động trong các hoạt động “tự chủ” của mình. Cụ thể:
Về quản lý nguồn nhân lực, các cơ sở giáo dục đại học công không được tự quyết định về vấn đề tuyển dụng, sử dụng, luân chuyển, bổ nhiệm, chấm dứt hợp đồng lao động đối với cán bộ, viên chức mà phải thực hiện theo đúng thủ tục, quy trình quy định của luật Viên chức và quy định của cơ quan chủ quản. Điều này làm cho việc tuyển dụng lao động và bố trí nhân sự phù hợp gặp khó khăn.
Về tài chính, còn nhiều “rào cản” do thiếu đồng bộ trong các quy định của các luật như Luật Ngân sách nhà nước, Luật quản lý, sử dụng tài sản công hay việc nhiều người đang đồng nhất khái niệm “tự chủ” với “tự túc kinh phí”. Cùng với việc ra đời của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, các đơn vị sự nghiệp công phải thực hiện cắt giảm ngân sách nhà nước theo lộ trình sau mỗi thời kỳ ổn định (5 năm), làm cho việc chi tiêu tại các cơ sở giáo dục đại học ngày càng bị thắt chặt hơn, ảnh hưởng lớn đến việc phát triển nhà trường và chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu.
Về học thuật, hoạt động chuyên môn, theo quy định của luật, việc tuyển sinh, mở mã ngành, tổ chức, quản lý đào tạo là thuộc trách nhiệm của cơ sở đào tạo, song các quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành (như quy chế tuyển sinh, quy chế đào tạo…) còn áp đặt nhiều quy định của cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục đại học vẫn chưa được quyền quyết định...
Trong khi đó, các trường đại học được chủ động mở các mã ngành làm cho hầu hết các trường đại học hiện đều là trường “đa ngành”, nhiều ngành không liên quan đến các ngành chủ đạo của trường theo chức năng, nhiệm vụ chuyên môn đã được giao và xã hội công nhận, vẫn được mở và đào tạo tràn lan, làm lãng phí nguồn lực xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Bên cạnh đó, đối với Hội đồng trường, theo Nghị định số 99/2019/NĐ-CP Hội đồng trường được quy định nhiều quyền nhưng không gắn với trách nhiệm và lợi ích.
Tham khảo 2 thiết chế hoạt động “hội đồng” trong thực tiễn: Thiết chế của Hội đồng nhân dân tỉnh là Bí thư hoặc Phó Bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân, đối với thiết chế hoạt động này, nhân sự là công chức nhà nước và có ngân sách đảm bảo.
Đối với Hội đồng quản trị của doanh nghiệp hoạt động chi phối bởi thành viên là đóng góp cổ phần, người góp vốn cao sẽ có vai trò quyết định; Hoạt động của 2 thiết chế hội đồng trên đây, các thành viên hội đồng chịu ràng buộc bởi trách nhiệm và lợi ích các bên tham gia.
Tuy nhiên, đối với hoạt động của hội đồng đại học thì thành viên hội đồng bên ngoài chỉ tham gia góp ý tài liệu, biểu quyết nhân sự, trao đổi trực tiếp trong các phiên họp với thời gian hạn hẹp, không thường xuyên bởi hầu hết là kiêm nhiệm.
Vai trò giám sát của Hội đồng trường chưa thực sự hiệu quả, chỉ dừng ở mức độ xem xét các báo cáo của ban giám hiệu mà ít thẩm định hoặc chất vấn, phản biện. Nhiều thành viên Hội đồng trường chưa phát huy được trách nhiệm, quyền hạn của mình.
“Nên chăng, sau một chu kỳ 5 năm, cần đánh giá lại về vai trò, vị thế và thực trạng hoạt động của Hội đồng trường tại các cơ sở giáo dục đại học?” - nữ đại biểu nhấn mạnh.
Cần đồng bộ giữa Luật Giáo dục đại học và các luật chuyên ngành
Từ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, Tiến sĩ Bùi Thị Quỳnh Thơ đề cập đến một số giải pháp tháo gỡ:
“Thứ nhất, cần phải quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, định hướng phát triển của các vùng kinh tế và các địa phương, vừa đáp ứng nhu cầu, vừa tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội đồng thời mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của người dân.
Quy hoạch các cơ sở giáo dục đại học cần phải dựa trên việc phân tầng các trường đại học, từ đó có chiến lược phát triển theo tầng đại học, từ cao xuống thấp. Mỗi tầng đại học sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ và khai thác thị trường riêng. Quán triệt nguyên tắc, song song với giao quyền tự chủ và thực hiện quyền tự chủ là tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ đến đâu thì trách nhiệm tương xứng tới đó.
Thứ hai, trong chiến lược tổng thể phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam, cần phải phân tích, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho mỗi giai đoạn, đề xuất kinh phí đầu tư của Nhà nước để đào tạo nhóm lao động này, từ đó sớm xây dựng và triển khai cơ chế đặt hàng đào tạo đối với các trường đại học.
Thứ ba, đối với các trường đại học công lập địa phương, cần phân định một cách rõ ràng và chi tiết các chức năng cơ bản, nhiệm vụ cụ thể và sứ mệnh cốt lõi theo chiến lược phát triển của địa phương, đào tạo theo địa chỉ của các bên có nhu cầu. Không đặt nặng vấn đề tự chủ tài chính đối với các trường đại học này. Các trường đại học địa phương cần đánh giá lại thực trạng và hiệu quả đào tạo trong thời gian qua, có thể không cần lấn sâu vào các chương trình đào tạo mang nặng tính học thuật mà nên xây dựng, cải tiến chương trình đào tạo phù hợp để khai thác thị trường ngách. Để thực hiện được điều này cần có sự giao thoa giữa Luật Giáo dục, Giáo dục đại học và Giáo dục nghề nghiệp.
Thứ tư, bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật chất thì cần quan tâm là đầu tư trực tiếp cho con người. Xây dựng, duy trì và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và một trong những nhiệm vụ trọng yếu của giáo dục đại học. Thực hiện việc thu hút, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ, bản thân các cơ sở giáo dục đại học sẽ gặp khó thực hiện nếu không có sự đầu tư mạnh mẽ từ Nhà nước.
Việc gia tăng định mức chi cho con người, chi các hoạt động chuyên môn từ nguồn ngân sách Nhà nước sẽ thu hút, giữ được lực lượng lao động có chất lượng cao, tránh tình trạng chảy máu chất xám, gia tăng các công trình khoa học cũng như chất lượng đào tạo”.
Theo Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ, để đảm bảo tự chủ đại học đạt được mục tiêu và yêu cầu đề ra, vẫn phải xuất phát từ 3 trụ cột quản lý nhà trường về tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính.
“Vấn đề là các quyền tự chủ này phải được thực hiện một cách thực chất hơn” - nữ đại biểu cho hay.
Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ phân tích thêm: “Yếu tố then chốt tạo sự đột phá trong công tác đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục đại học thường được nghĩ đến đầu tiên đó là chuyên môn và học thuật, vì vậy các hoạt động tự chủ khác đều phải xoay quanh yếu tố này.
Đối với công tác tổ chức và nhân sự, cần thực hiện phân tích nguồn nhân lực và lập kế hoạch quản trị nguồn nhân lực một cách có bài bản, phải tuyển được những giảng viên tài giỏi, phát triển giảng viên và cả đội ngũ hành chính trong các trường đại học, có cơ chế đánh giá viên chức, khen thưởng và chế độ đãi ngộ một cách thực chất.
Để quản trị nguồn nhân lực tại các cơ sở giáo dục đại học chuyên nghiệp, cần điều chỉnh Luật Viên chức và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để các trường đại học tự chủ trong quản lý nguồn nhân lực.
Để giải quyết tốt vấn đề nguồn nhân lực và chuyên môn, học thuật, thì tài chính phải là điều kiện tiên quyết.
Có thể khẳng định rằng, tự chủ tài chính là chủ trương đúng, để đảm bảo các cơ sở giáo dục đại học không thụ động, trông chờ, ỷ lại vào ngân sách Nhà nước, giúp cho các trường đại học chủ động, sáng tạo trong việc huy động các nguồn lực, tự tìm hướng đi mới cho mình để đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần phải xác định rõ, tự chủ tài chính không có nghĩa là tự túc nguồn kinh phí.
Thực tế cho thấy, tự chủ tài chính làm gia tăng áp lực cho các cơ sở giáo dục đại học trong việc tìm mọi cách để nâng cao nguồn thu, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà trường, điều này đã làm cho chất lượng đào tạo của nhiều cơ sở giáo dục đại học giảm sút, một khi các cơ sở công lập dần chuyển sang mô hình hoạt động của doanh nghiệp thì đồng nghĩa mục tiêu phát triển con người cũng sẽ là thứ yếu, thay vào đó lợi nhuận mới là ưu tiên hàng đầu.
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Chi ngân sách Nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu gồm chi thường xuyên và chi đầu tư, theo tôi các khoản chi trong mục chi thường xuyên cho ngành giáo dục nên được coi như chi đầu tư phát triển, bởi vậy, tôi cho rằng, vấn đề đầu tư kinh phí cho phát triển giáo dục đại học cần phải được nghiên cứu, quan tâm và ưu tiên hơn”.
“Bên cạnh đó, cần có sự đồng bộ giữa Luật Giáo dục đại học và các luật chuyên ngành để việc triển khai, thực thi luật không bị vướng và đi vào thực chất. Các cơ sở giáo dục đại học cần nâng cao năng lực thực thi pháp luật, đào tạo và nâng cao nhận thức về tự chủ, nâng cao năng lực quản trị đại học cho đội ngũ cán bộ quản lý của các cơ sở đào tạo; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ thực hiện quản trị nhà trường hiệu quả” - nữ đại biểu nhấn mạnh thêm.