Đại biểu Quốc hội nói về tình trạng lạm dụng đóng dấu 'mật'
Theo một số đại biểu Quốc hội, nhiều trường hợp đóng dấu mật không nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia mà để bảo vệ cá nhân, né tránh trách nhiệm, hoặc che giấu sai phạm.
Thảo luận tại Quốc hội về dự án Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước (sửa đổi) vào chiều 7-11, các đại biểu Quốc hội cho rằng việc lạm dụng đóng dấu “mật” đang trở thành rào cản lớn đối với minh bạch thông tin, gây lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi số quốc gia...
Cần ngăn chặn việc lạm dụng dấu “mật”
Phát biểu tại nghị trường, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) nhấn mạnh nguyên tắc sử dụng và bảo vệ bí mật Nhà nước phải được thực hiện thống nhất, nghiêm túc và đúng mục đích. Ông cho rằng đây là nguyên tắc “bất di bất dịch”, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng lạm dụng việc đóng dấu “mật” vẫn diễn ra ở không ít cơ quan, đơn vị.
“Có những tài liệu không thực sự thuộc danh mục bí mật Nhà nước nhưng vẫn được đóng dấu ‘mật’ để che giấu thông tin hoặc tránh bị công khai. Điều này cần được kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt ở khâu văn thư và người có thẩm quyền ra quyết định”, ông Hòa nói.
Đại biểu đề nghị luật phải quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc xác định và phê duyệt độ mật; đồng thời phải có cơ chế giám sát, nhắc nhở và chế tài phù hợp để xử lý trường hợp lạm dụng.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp). Ảnh: QH
Về phạm vi bí mật Nhà nước, ông Hòa cho rằng cần rà soát lại danh mục 13 lĩnh vực hiện nay. “Có những lĩnh vực lẽ ra phải được công khai để người dân biết và giám sát, như quy hoạch đô thị, tài chính, phát thanh – truyền hình…
Thậm chí, có báo cáo về tài chính, quy hoạch phát triển trung và dài hạn được đóng dấu ‘mật’, trong khi lại được thảo luận công khai trên truyền hình. Vậy có cần thiết phải ‘mật’ hay không?”, ông đặt vấn đề.
Theo ông Hòa, ngay cả thông tin về khí tượng thủy văn, vốn phục vụ trực tiếp đời sống người dân, cũng được liệt vào danh mục bí mật Nhà nước là điều chưa thật hợp lý. “Cần điều chỉnh danh mục này sao cho ‘bí mật’ thực sự là bí mật, đúng tính chất và tương đồng với thông lệ quốc tế”, ông kiến nghị.
Về phân loại bí mật, đại biểu Hòa tán thành việc chia làm ba cấp độ (tuyệt mật, tối mật và mật), nhưng nhấn mạnh phải có tiêu chí định tính, định lượng cụ thể để thể hiện mức độ nguy hại nếu bị lộ. “Có như vậy, việc phân loại mới có giá trị răn đe và tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ trong công tác bảo vệ bí mật Nhà nước”, ông nói.
Đối với quy định về giải mã và tiêu hủy tài liệu mật, ông Hòa cho rằng việc bắt buộc phải thành lập hội đồng là chưa cần thiết. Theo ông, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp, có thể giao cho văn thư hoặc cán bộ được phân công thực hiện theo lệnh bằng văn bản, thay vì “lập hội đồng rườm rà, tốn thời gian và tăng thủ tục hành chính”.
Về việc mang tài liệu bí mật Nhà nước ra khỏi nơi lưu trú hoặc ra nước ngoài, ông Hòa đề nghị phải siết chặt hơn. “Dù mang ra phục vụ công vụ, nếu là tài liệu tuyệt mật hoặc tối mật, cũng cần phải xin ý kiến và được sự đồng ý bằng văn bản của thủ trưởng cơ quan. Chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến an ninh quốc gia”, ông lưu ý.
Tình trạng “dư thừa bí mật” gây nhiều thiệt hại
Phát biểu tại hội trường, đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội mở đầu phát biểu bằng một câu hỏi đáng suy ngẫm: “Có ai trong chúng ta biết chính xác hiện nay Nhà nước đang có bao nhiêu văn bản được đóng dấu ‘mật’? Câu trả lời là không thể, vì số lượng quá lớn và phân tán”.
Theo bà Thủy, “sự dư thừa bí mật” đang gây ra thiệt hại thực tế cho quản trị công, làm giảm tính minh bạch quốc gia và quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Ảnh: QH
“Không ít nơi, việc đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính. Cứ văn bản liên quan đến công tác cán bộ hoặc đang trong quá trình soạn thảo là được đóng mật. Có tài liệu không thuộc diện mật nhưng vẫn bị quản lý như mật; thậm chí, có nội dung đã được báo chí công khai nhưng vẫn đóng mật”, bà nêu thực tế.
Theo đại biểu, nhiều trường hợp việc đóng mật không nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia mà để bảo vệ cá nhân, né tránh trách nhiệm, hoặc che giấu sai phạm. “Hệ quả là bộ máy phải gánh chi phí lớn cho in ấn, lưu trữ, vận chuyển, bảo quản, tiêu hủy… Tất cả đều phải tuân thủ quy trình nghiêm ngặt”, bà nói.
Đại biểu cho hay, trong hoạt động giám sát và xây dựng pháp luật, Quốc hội không ít lần gặp tình huống tài liệu được xếp loại mật nhưng không thực sự có nội dung mật, gây cản trở cho công khai thông tin.
“Có nội dung luật yêu cầu thảo luận công khai, nhưng số liệu phục vụ lại được xếp loại mật. Điều này đi ngược tinh thần minh bạch, trách nhiệm giải trình được nêu trong Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị”, bà Thủy nhấn mạnh.
Đại biểu Thủy phân tích hiện tượng “mật hóa tràn lan” bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính. Thứ nhất, quy định pháp luật còn rộng và thiếu rõ ràng. Thứ hai, do thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng. Thứ ba do thiếu khung pháp lý cho nhóm tài liệu ‘lưu hành nội bộ’, tạo ra “vùng xám hành chính”. Cán bộ lo ngại rủi ro lộ thông tin nên không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số hay ứng dụng AI trong xử lý văn bản, gây cản trở chuyển đổi số.
Cùng với đó, đại biểu cũng chỉ ra nghịch lý: “Đóng mật thì dễ, giải mật thì khó.” Theo quy định, người đứng đầu có thể quyết định nhanh việc đóng mật, nhưng khi giải mật lại phải lập hội đồng, họp, lập biên bản và lưu hồ sơ. “Hệ quả là nhiều tài liệu đáng ra phải được công khai vẫn bị treo trạng thái mật nhiều năm”, bà nêu.
Từ thực tiễn, đại biểu Thủy kiến nghị 5 nhóm giải pháp để khắc phục tình trạng này: Một là, cụ thể hóa phạm vi bí mật Nhà nước, giới hạn trong những trường hợp thật sự cần thiết và có tiêu chí định lượng rõ ràng.
Hai là, bổ sung quy định cấm lạm dụng việc xác định độ mật, nghiêm cấm đóng mật sai quy định để che giấu thông tin hoặc né tránh trách nhiệm. Ba là, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu, người quyết định độ mật phải chịu trách nhiệm giải trình, bị xử lý khi lạm dụng.
Bốn là, đơn giản hóa thủ tục giải mật, chỉ thành lập hội đồng đối với tài liệu tuyệt mật, còn lại giao quyền cho cơ quan ban hành quyết định trực tiếp. Năm là, ban hành khung pháp lý cho tài liệu lưu hành nội bộ, giúp các cơ quan yên tâm ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong xử lý văn bản.











