Đại dịch và chiến tranh giúp Nhật Bản vùng thoát ra khỏi kỷ nguyên giảm phát
Trong 25 năm, Nhật Bản đã xoay sở sử dụng mọi công cụ của ngân hàng trung ương để kích giá cả tăng và vực dậy nền kinh tế vốn trong tình trạng gần như đứng im nhưng không thành công. Thế nhưng, liệu pháp cho tình trạng bế tắc của nền kinh tế lớn thứ tư thế giới lại là đại dịch Covid-19 và chiến tranh.
Tin vui khi giá cả tăng
Chi phí năng lượng và thực phẩm cao hơn do tác động cuộc cuộc xung đột Nga-Ukraine cùng với những khó khăn trong chuỗi cung ứng từ thời kỳ Covid-19 đang mang đến một kết thúc bất ngờ cho kỷ nguyên giảm phát và tăng trưởng trì trệ của Nhật Bản. Hiện tại, các doanh nghiệp của Nhật Bản đã tăng giá đáng kể và tiền lương của người lao động bắt đầu nhích lên.
“Điều này giống như kiểu trong cái rủi lại có cái may. Nhờ những thảm họa này (dịch bệnh và chiến tranh), tâm lý giảm phát đã biến mất”, Etsuro Honda, cố vấn kinh tế của cố Thủ tướng Shinzo Abe bình luận.
Lạm phát ở Nhật Bản đang ở mức 3% và tiền lương trong nước đang tăng lên, dù chậm hơn so với tốc độ tăng giá cả. Hồi cuối tháng 10, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) dự đoán, lạm phát cơ bản của đất nước sẽ tăng 2,8% trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3-2025, đánh dấu năm thứ ba liên tiếp giá tăng vượt mục tiêu. Dù Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn nhưng các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách tin rằng, nước này cũng có cơ hội để đẩy lùi tình trạng giảm phát vĩnh viễn.
Chihiro Ohno, một nữ diễn viên và nhân viên bán thời gian tại một cửa hàng gốm sứ, đã để mắt đến một đôi khuyên tai trong nhiều năm. Gần đây, cô phát hiện giá đôi khuyên tai đã tăng lên mức khoảng 200 đô la Mỹ, cao hơn 50% so với mức giá mà cô nhớ.
Ohno muốn mua trang sức này để làm quà cho một người bạn. “Tôi muốn quay lại cửa hàng và mua nó ngay khi có thể, khi lương của tôi tăng lên”, cô nói.
Ông chủ của cô, Hiroyuki Okami thông báo cô sắp được tăng lương. Gần đây, ông đã tăng lương lần thứ hai trong một năm sau khi khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá các mặt hàng gốm sứ tăng lần đầu tiên.
Nhà kinh tế Tsutomu Watanabe của Đại học Tokyo, cho biết thế hệ trẻ người Nhật đã quen với việc giá cả và tiền lương cố định và những kỳ vọng giá vẫn thấp trong tương lai khiến hàng hóa không thể nhích lên.
“Bây giờ, những người ở độ tuổi 20, 30 hoặc đầu 40 đang trải qua thực tế về lạm phát nên kỳ vọng lạm phát của họ đang thay đổi. Tôi nghĩ xu hướng tăng lạm phát và tăng lương hiện tại là bền vững”, Watanabe nói.
Giảm phát như căn bệnh mãn tính
Sau đợt tăng thuế của chính phủ và cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Nhật Bản rơi vào tình trạng giảm phát toàn diện, dù BoJ đã hạ lãi suất xuống 0. Xói mòn giá cả trên toàn nền kinh tế thường khiến đầu tư kinh doanh suy yếu, cắt giảm lương và tâm trạng bi quan.
Haruhiko Kuroda, người trở thành thống đốc BoJ vào năm 2013 đã ví tình trạng giảm phát của Nhật Bản như một căn bệnh mãn tính. “Những căn bệnh như vậy có xu hướng gây ra tương đối ít đau đớn cho bệnh nhân nhưng vì lý do đó, chúng có thể là kẻ giết người thầm lặng, âm thầm hủy hoại toàn bộ cơ thể”, ông nói trong một bài phát biểu năm 2016.
Năm 1999, BoJ là là ngân hàng trung ương tiên áp dụng chính sách lãi suất bằng 0. Đây cũng là nước đầu tiên thử nới lỏng định lượng, bao gồm mua thêm nợ chính phủ từ các ngân hàng thương mại. Mục đích là nới lỏng các điều kiện tín dụng và khuyến khích cho vay.
Kuroda nghĩ rằng giải pháp đó vẫn chưa đủ nên đã tung ra được chính sách “bazooka” : mở rộng đáng kể hoạt động mua trái phiếu chính phủ dài hạn, nợ doanh nghiệp và chứng khoán.
Ông cam kết sẽ đạt được lạm phát 2% trong vòng hai năm. Khi mục tiêu lạm phát tỏ ra khó nắm bắt, Kuroda dấn thêm một bước nữa là đưa lãi suất ngắn hạn xuống mức âm. Trong bài phát biểu năm 2016, ông gọi đây là “sự nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ nhất trong lịch sử ngân hàng trung ương hiện đại”. Vài tháng sau, ông cũng đưa ra cam kết giữ lãi suất dài hạn ở mức 0.
Cả Kuroda và ông Shinzo Abe, Thủ tướng Nhật Bản thời điểm đó đều tin rằng, những tuyên bố mạnh mẽ như vậy có thể thay đổi tâm lý quốc gia. Lạm phát đã chuyển sang vùng tích cực và Abe thường đề cập đến về hàng triệu việc làm mới được tạo ra dưới thời chính quyền của ông. Tuy nhiên, ông ít nói về mức lương hầu như không khác biệt so với 25 năm trước từ những công việc đó.
Cuối cùng, những phát biểu hùng hồn của Kuroda đã không thay đổi được tâm lý của cả nước. Việc nới lỏng định lượng cũng cần được xem xét lại vì nhiều nhà kinh tế tin rằng chính sách này có tác dụng kích thích hạn chế cả về lý thuyết lẫn thực tế.
Doanh nghiệp tăng lương và đầu tư
Đại dịch Covid-19 ban đầu làm trầm trọng thêm vấn đề giảm phát của Nhật Bản. Sau đó, chiến tranh ở Ukraine đã đẩy giá hàng hóa lên cao, đặc biệt là dầu, khí đốt tự nhiên và ngũ cốc. Trong khi đó, sự sụt giảm giá trị của đồng yen so với đô la Mỹ đã đẩy chi phí nhập khẩu tính theo đồng yen lên cao. Vào tháng 4-2022, tỷ lệ lạm phát ở Nhật Bản đạt 2,5%, vượt mục tiêu 2% của ngân hàng trung ương.
Lúc đầu, các công ty đã xin lỗi rất nhiều vì đã tăng giá bán hàng và có vẻ như doanh nghiệp sẽ dừng tăng giá khi cú sốc chi phí giảm bớt. Okami, chủ cửa hàng đồ gốm, trả nhiều tiền hơn để đốt lò nung điện và mua đất sét, men và các vật liệu khác. Vì vậy, ông tăng giá các sản phẩm lên từ 20-25% hồi tháng 9-2022 và hồi hộp chờ phản ứng của khách hàng. Điều bất ngờ là khách hàng vui vẻ trả thêm tiền.
Ayumi Kinoshita, người mua đĩa sứ từ cửa hàng của Okami cho một nhà hàng ẩm thực Thái Lan do cô điều hành ở Tokyo, đã ba lần tăng giá thực đơn lên tổng cộng hơn 20% vì chi phí cao hơn, bao gồm cả chi phí cho đĩa.
“Hầu hết khách hàng đều nghĩ rằng điều đó là không thể tránh khỏi”, cô nói. Cuối năm ngoái, Kinoshita đã tăng lương cho nhân viên từ 5-8% và dự định tăng thêm một đợt nữa.
Năm ngoái, Asahi Shuzo, nhà sản xuất rượu sake ở miền tây của Nhật Bản, bắt đầu sáng kiến tăng gấp đôi lương trong 5 năm tiếp theo. Kazuhiro Sakurai, Chủ tịch của công ty này, gọi đây là “sự đầu tư chủ động nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường”.
Ông cho rằng, Nhật Bản cần phải từ bỏ phương châm “chất lượng tốt hơn với giá thấp hơn” thay vào đó tìm kiếm “giá trị cao hơn với giá cao hơn”.
Fast Retailing, công ty mẹ của chuỗi cửa hàng thời trang Uniqlo đã tăng giá và gần đây tăng lương cho nhân viên lên tới 40%.
Tính trung bình, các công ty Nhật Bản đồng ý tăng lương 3,58% trong các cuộc đàm phán hàng năm vào mùa xuân vừa qua. Đây là mức tăng lương mạnh mẽ của họ trong ba thập niên qua. Theo Viện nghiên cứu NLI ở Tokyo, các công ty Nhật Bản đang tăng cường đầu tư vốn với số tiền kỷ lục, với tổng vốn đầu tư hàng năm dự kiến lên tới 100 nghìn tỉ yên, tương đương 665 tỉ đô la, trong năm nay và năm tới.
Điều đó cho cho thấy Nhật Bản đang chuyển sang một nền kinh tế năng động hơn. Nhật Bản tăng trưởng ở mức 4,8% hàng năm trong quí từ tháng 4 đến tháng 6, và dự kiến tiếp tục tăng trưởng trong năm tới.
BOJ vẫn thận trọng
Tuy nhiên, Kazuo Ueda, Thống đốc hiện tại của BOJ, không chắc chắc tâm lý chấp nhận giá cả tăng sẽ bền vững. Vì vậy, ông vẫn kiềm chế tăng lãi suất đáng kể. Điều đáng lo ngại nhất đối với BOJ là tiền lương dù có tăng nhưng vẫn chưa theo kịp lạm phát.
Trong một bài phát biểu tuần này, Ueda cho biết, rất phấn khởi khi thấy các công ty tăng lương và giá cả, nhưng vẫn chưa rõ liệu chu kỳ tốt đẹp này có mạnh mẽ thêm nữa hay không.
Etsuro Honda, cựu cố vấn của ông Shinzo Abe, lo ngại Thủ tướng Fumio Kishida có thể tăng thuế để đáp ứng nhu cầu tăng chi tiêu quốc phòng. Ông cảnh báo, việc tăng thuế ở giai đoạn này sẽ có tác động lớn đến tâm lý người dân.
Kishida dường như đã chú ý đến mối lo ngại đó. Đầu tháng này, ông tuyên bố vào năm tới, chính phủ sẽ thực hiện đợt cắt giảm thuế thu nhập một lần, trị giá vài trăm đô la cho mỗi hộ gia đình. Đây là một phần của gói kích thích kinh tế trị giá 113 tỉ đô la của chính phủ Nhật Bản nhằm khuyến khích các công ty tiếp tục tăng lương.
Watanabe, nhà kinh tế của Đại học Tokyo, nói nếu dấu hiệu nhỏ cho thấy đất nước hướng trở lại vùng giảm phát, chính phủ phải hành động mạnh mẽ để ngăn chặn.
“Nếu cơ hội đẩy lùi giảm phát này bị bỏ lỡ, cơ hội khác sẽ không sớm đến”, ông nói.
Theo WSJ