Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất và phát triển đất nước
Ngày 28-4, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Tiền Giang long trọng tổ chức Họp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025). Tại buổi họp mặt, đồng chí Nguyễn Văn Danh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang đã có phát biểu ôn lại truyền thống 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-1925). Báo Ấp Bắc trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Danh.
Kính thưa:
- Các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Trung ương và của địa phương;
- Các đồng chí lão thành cách mạng;
- Quý Mẹ Việt Nam Anh hùng;
- Các Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động;
- Quý đại biểu và các đồng chí.
Trong không khí phấn khởi, hân hoan, tự hào của những ngày tháng Tư lịch sử; sáng nay, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Tiền Giang long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025) - đây là móc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Thay mặt lãnh đạo tỉnh, xin gửi đến các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Trung ương và của địa phương, các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, quý đại biểu, các đồng chí lời chúc mạnh khỏe và lời chào trân trọng nhất.
Kính thưa quý đại biểu và các đồng chí,
Cách đây tròn nửa thế kỷ, vào ngày 30-4-1975, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng mùa xuân lịch sử 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thu non sông về một mối, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất và phát triển đất nước.
Chiến thắng vĩ đại ấy là thành quả của biết bao xương máu, biết bao gian khổ, hy sinh của các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Đó là sự hội tụ của lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết kiên cường và ý chí sắt đá của toàn dân tộc; là sự kết tinh của nghệ thuật quân sự và sự nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước của các thế hệ lãnh đạo Việt Nam.
Trang sử vàng của dân tộc ta đã khắc ghi: Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược, nhân dân ta có quyền thực hiện khát vọng thiêng liêng của mình là được sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc và có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới. Thế nhưng, chủ nghĩa đế quốc đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam nước ta trở thành thành căn cứ quân sự, đàn áp tàn bạo cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta; song, nhân dân ta quyết không sợ, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu gửi đến đồng bào chiến sĩ cả nước đã trở thành mệnh lệnh thiêng liêng của lý trí và trái tim mỗi người Việt Nam, cả dân tộc ta tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh, gian khổ mà anh dũng, kéo dài suốt 21 năm chống đế quốc xâm lược.
Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, để cứu vãn sự sụp đổ của Chính quyền Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời mở rộng hoạt động ném bom đánh phá miền Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu và sự chi viện tổng lực sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc, sự hỗ trợ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân yêu chuộng hòa bình các nước trên thế giới, miền Nam đã xây dựng được đội quân chính trị của quần chúng và Lực lượng Vũ trang nhân dân; kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, giữa khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị và binh vận, lần lượt đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đơn phương” (1954 - 1960), “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc (1965 - 1968). Phát huy tinh thần đoàn kết, chiến đấu chống giặc ngoại xâm, quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu, làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân (1969 - 1973), tạo thế mạnh trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pa-ri (1973).
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận thấy lực lượng của ta ở miền Nam không ngừng lớn mạnh so với địch nên đã thống nhất giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976, đồng thời nhấn mạnh: “Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975”. Sau chiến thắng của quân ta ở Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị khẳng định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật, vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa” và chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông. Lúc 17 giờ ngày 26-4-1975, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não; khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 30-4-1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức Tổng thống ngày 28-4-1975 đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện; đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu thắng lợi hoàn toàn của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ở tỉnh ta, có vị trí “Địa chính trị”, nằm cửa ngõ phía Tây và Tây Nam Sài Gòn - Gia Định, Mỹ Tho - Gò Công được Trung ương xác định là một trong những địa bàn chiến lược bảo đảm cho thế trận Tổng tiến công. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch, trên địa bàn tỉnh đã trở thành địa điểm tập kết lực lượng, vũ khí, lương thực, thực phẩm cho các cánh quân chủ lực; hàng chục vạn lượt dân công hỏa tuyến, cán bộ giao liên, Lực lượng vũ trang địa phương ngày đêm hoạt động phục vụ mặt trận, bất chấp mưa bom, bão đạn. Từ giữa tháng 4-1975, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Miền, Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã tổ chức nhiều đợt tấn công và nổi dậy trên khắp địa bàn; các Lực lượng vũ trang địa phương, du kích xã, ấp, biệt động thành và cán bộ binh vận phối hợp chặt chẽ, tiến công sâu vào hệ thống ngụy quân, ngụy quyền, tự giải phóng xã, huyện, tỉnh của cấp mình.
Tại huyện Châu Thành và Cai Lậy, từ ngày 25-4 đến ngày 28-4-1975, lực lượng du kích và các đại đội chủ lực của tỉnh đã tiến hành đánh chiếm các đồn bót, trụ sở cảnh sát, kho vũ khí và trại đóng quân của địch. Tại Gò Công, Lực lượng vũ trang địa phương đã phối hợp hiệu quả với quần chúng nổi dậy giành quyền kiểm soát vào rạng sáng ngày 30-4-1975.
Đêm 29-4-1975, Lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với bộ đội chủ lực và biệt động thành đồng loạt tiến công vào các mục tiêu chiến lược trong nội ô Mỹ Tho, như: Tòa hành chánh tỉnh, Ty Cảnh sát quốc gia, Trại lính bảo an, Nhà lao, Kho xăng dầu và trạm tiếp vận quân sự,... Đến trưa ngày 30-4-1975, Mỹ Tho được giải phóng hoàn toàn, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên đỉnh Tòa hành chính.
Trong vòng chưa đầy 72 giờ, toàn tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã được giải phóng; hơn 1 vạn binh lính địch bị tiêu diệt, số còn lại bị bắt, đầu hàng và tháo chạy về Cần Thơ; hàng trăm phương tiện chiến tranh được thu giữ nguyên vẹn; chính quyền cách mạng được thiết lập đồng loạt từ tỉnh đến xã ngay trong ngày 30-4-1975. Những thắng lợi này không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự - chính trị mà còn góp phần trực tiếp làm tan rã hệ thống phòng thủ từ phía Tây - Tây Nam Sài Gòn, tạo điều kiện để các cánh quân chủ lực thần tốc tiến vào Sài Gòn - Gia Định, giành thắng lợi hoàn toàn trong “Chiến dịch Hồ Chí Minh” lịch sử; đã có biết bao chiến công gắn liền với tên đất, tên người trở thành bất tử, tiêu biểu như: Chiến thắng Ấp Bắc năm 1963, chiến thắng Ba Rài năm 1967, vành đai Bình Đức diệt Mỹ, tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, mở mảng chuyển vùng giải phóng Chợ Gạo năm 1974, chiến thắng Ngã Sáu - Bằng Lăng, Cái Bè vào tháng 3-1975...
Kính thưa quý đại biểu và các đồng chí,
Đại thắng mùa xuân năm 1975, là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc ta. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh nhất, kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12-1976) đã đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Chiến thắng ngày 30-4-1975, không những có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đánh dấu sự kết thúc của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất và khát vọng hòa bình của dân tộc ta; đưa nước ta trở thành một quốc gia thống nhất, khẳng định quyền tự quyết, quyền làm chủ của nhân dân ta trong việc lựa chọn con đường phát triển và bảo vệ độc lập dân tộc, mà còn tạo nền tảng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, giúp cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết được những bài học kinh nghiệm quý báu: Đó là, bài học về chớp thời cơ chiến lược, sáng tạo và mưu lược trong chỉ đạo chiến lược; đó là, bài học về phát huy cao độ hào khí dân tộc trên nguyên tắc đặt đại nghĩa dân tộc và lợi ích quốc gia lên trên hết; đó là, bài học về sức mạnh của đoàn kết dân tộc; đó là, bài học về sự lãnh đạo sáng suốt và tài trí của Đảng ta; đó là, bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, về sự kiên trì, quyết tâm và không khuất phục trước khó khăn; đó là, bài học về khả năng vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và phát huy hiệu quả sự ủng hộ đó.
Trải qua 50 năm, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn. Chiến công hiển hách đó không chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc mà còn luôn cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên những chặng đường cách mạng mới,…
Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những dấu ấn của ngày 30-4-1975 lịch sử vẫn luôn sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam về những khoảnh khắc hào hùng khi chiến tranh kết thúc, đất nước sạch bóng quân thù, hòa bình lan tỏa khắp mọi miền, non sông liền một dải, cả nước sum họp trong niềm vui thống nhất. Chúng ta mãi luôn tự hào và biết ơn vô hạn công lao trời biển của Bác Hồ muôn vàn kính yêu; thành kính, tưởng nhớ, tri ân các vị lãnh tụ của Đảng, các Anh hùng Liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu ngoan cường và hy sinh anh dũng trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài, gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân tộc ta, của Đảng ta. Con đường vinh quang đó chẳng những là niềm tự hào của toàn dân, toàn Đảng, toàn quân ta mà còn để lại những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm tốt đẹp trong đánh giá của đồng chí, bạn bè quốc tế, trong lương tâm, ký ức, lương tri và trong trái tim nhân loại.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các gia đình liệt sĩ, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, các gia đình có công với nước, các đồng chí thương binh, bệnh binh đã chiến đấu vì sự trường tồn của dân tộc dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng; chúng ta càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, một lòng, một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Mỗi chúng ta phải thấy được đây là niềm tự hào để rèn luyện, để phấn đấu; bởi lẽ, nếu không có Đảng, không có Bác Hồ muôn vàn kính yêu lãnh đạo thì đất nước ta và mỗi chúng ta sẽ không có được như ngày hôm nay.
Kính thưa quý đại biểu và các đồng chí,
Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá về đích để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lên, tạo đà, tạo thế, tạo lực để đạt mức tăng trưởng 2 con số trong những năm tới; tập trung quyết liệt, khẩn trương với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” việc tổng kết Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đồng thời, cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, như: Kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, tinh thần Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà luôn nỗ lực, phấn đấu “không ngừng, không nghỉ”, tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp với quyết tâm hoàn thành cao nhất Nghị quyết năm 2025, góp phần cho kết quả chung của cả nhiệm kỳ 2020 - 2025. Điều rất phấn khởi, qua hơn 3 tháng triển khai Nghị quyết năm 2025, hầu hết các chỉ tiêu, nhiệm vụ thực hiện đều đạt và vượt so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ năm 2024, như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 6,3%; kim ngạch xuất khẩu tăng 1,5%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 10,1%; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng 35,4%,... Đặc biệt, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng thực hiện với quyết tâm cao; việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống, về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đạt kết quả tốt; đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; đề cao trách nhiệm, sự gương mẫu, nêu gương của các cấp ủy, của người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhiệm vụ,...
Mặt khác, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã và đang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khẩn trương, hiệu quả, đảm bảo đúng quy định, lộ trình Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã) gắn với làm tốt công tác chính trị tư tưởng, định hướng dư luận xã hội, kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, của phần tử cơ hội chính trị.
Thực hiện quyết liệt 7 nhóm giải pháp: Một là, cải cách tổ chức, bộ máy; hai là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; ba là, hình thành các động lực tăng trưởng mới, thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ cao, đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, phát triển các vùng động lực, đô thị; thứ tư là, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; năm là, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, xem đây là một trong những động lực quan trọng cho tăng trưởng, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; sáu là, mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu dùng; bảy là, nâng cao chất lượng, sản lượng, giá trị các mặt hàng chủ lực của tỉnh phục vụ cho xuất khẩu để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trở lên trong năm 2025, làm cơ sở cho giai đoạn 2026 - 2030 tăng trưởng đạt hai con số.
Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong lao động, sản xuất; thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; chú trọng thực hiện chuyển đổi số với 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững; quan tâm chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước gắn với đảm bảo an ninh, an toàn thông tin mạng; triển khai hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin các ngành, lĩnh vực; xây dựng, tạo lập dữ liệu mở phục vụ người dân, doanh nghiệp khai thác, sử dụng, cung cấp dịch vụ công ở mức độ cao.
Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW ngày 14-4-2025 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương, kịp thời chấn chỉnh tình trạng cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện dao động, băn khoăn, lo lắng, sa sút ý chí, buông xuôi, làm việc cầm chừng, thiếu tích cực trong công việc dẫn tới bê trễ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ thấp, làm ảnh hưởng đến uy tín, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức, cơ quan, đơn vị và địa phương, cơ sở.
Kính thưa quý đại biểu và các đồng chí,
50 năm qua, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Từ một quốc gia bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, chúng ta đã vươn mình mạnh mẽ, đạt được những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng ổn định, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được khẳng định.
Bước vào chặng đường phát triển mới, chúng ta phải ghi nhớ sâu sắc bài học về sự đoàn kết mà Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta và của Dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; phải nêu cao ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của dân tộc; phải kế thừa xứng đáng thành quả cách mạng, tiếp tục phát huy những giá trị tinh thần cao đẹp mà cha ông ta để lại để xây dựng một đất nước ngày càng vững mạnh, xứng đáng với những hy sinh và ước mơ của bao thế hệ. Dù thử thách còn nhiều ở phía trước, nhưng với lòng quyết tâm, với khát vọng lớn lao, đất nước ta, tỉnh ta sẽ tiến lên mạnh mẽ trên con đường phát triển; sẽ vững vàng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân Tiền Giang càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, kiên định sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, xây dựng Đảng bộ tỉnh ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Xin kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Trung ương và của tỉnh, các đồng chí lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, sỹ quan, chiến sỹ Lực lượng vũ trang, cộng đồng doanh nghiệp, quý đại biểu, các đồng chí và nhân dân tỉnh nhà mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!