Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Vị Tổng Tư lệnh trùm chăn và lời dặn 'nâu sồng kháng chiến'

Cố Thứ trưởng Ngoại giao, Đại tá Hà Văn Lâu đã từng có những chia sẻ chân tình về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng Tư lệnh giản dị nhưng luôn hết lòng vì dân, vì nước.

Cố Thứ trưởng Ngoại giao, Đại tá Hà Văn Lâu và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. (Nguồn: TTXVN)

Cố Thứ trưởng Ngoại giao, Đại tá Hà Văn Lâu và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. (Nguồn: TTXVN)

Vị Tổng Tư lệnh trùm chăn

Lần đầu tiên tôi gặp Đại tướng là tại chiến trường Nha Trang (Khánh Hòa). Khi đó, Đại tướng đi kiểm tra mặt trận phía Nam khi quân Pháp tràn từ Nam Bộ ra Nam Trung Bộ. Tôi đang chỉ huy Mặt trận khu B bao vây địch ở Nha Trang tại làng Phước Vinh tháng 10/1945 thì Đại tướng đến thăm trận địa.

Sau khi tìm hiểu tình hình địch – ta tại chỗ, Đại tướng chỉ thị quân ta không được đánh địch bằng phòng tuyến án ngữ chúng, mà phải tổ chức cùng nhân dân phân tán đánh du kích khi địch nống ra từ Nha Trang lên Diên Khánh.

Tổng Tư lệnh phê bình Ban chỉ huy Mặt trận Nha Trang có tư tưởng trận địa chưa phù hợp, phải bỏ trận địa mà phân tán ngay trong nhân dân, nếu địch nống ra thì ta dùng “du kích chiến đánh địch, bảo vệ dân, tiêu hao địch”. Đây là mệnh lệnh đầu tiên tôi nhận từ Đại tướng trong đời hoạt động quân sự của mình.

Lần thứ hai là trong thời kỳ tôi chỉ huy Mặt trận Bình Trị Thiên. Tuy nhiều lần tôi nhận chỉ thị của Địa tướng nhưng không trực tiếp gặp. Đến đầu năm 1950, tôi được lệnh ra Việt Bắc để báo cáo tình hình địa phương và những kinh nghiệm chiến đấu với Bộ Tổng tư lệnh. Bài học tôi nhận được là du kích vận động chiến mà tôi có dịp báo cáo với Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu.

Đến ngày 19/5/1950, tôi được Đại tướng giới thiệu đến dự ngày mừng sinh nhật thứ 60 của Bác Hồ tại Việt Bắc. Do có chỉ thị của Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng nên tôi được sắp xếp ngồi bên trái Bác Hồ trong tiệc mừng thọ Bác. Hai vị lãnh đạo nhắc nhở tôi bình tĩnh để báo cáo với Bác Hồ tình hình Bình Trị Thiên.

Sau lần đi Việt Bắc, về Bình Trị Thiên chuẩn bị tổ chức Sư đoàn 325, tôi được điện của Bộ Tổng Tư lệnh ra Việt Bắc nhận công tác mới. Đây là dịp tôi được trực tiếp làm việc với cương vị Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu nên nhiều dịp được làm việc với Đại tướng – nhất là trong dịp ta mở chiến dịch Hòa Bình. Tôi làm tham mưu chiến dịch thay tướng Hoàng Văn Thái.

Trời lạnh, Tổng Tư lệnh lại bị cúm nên phải trùm chăn khi nghe tôi báo cáo tình hình chiến sự. Điều làm tôi vô cùng xúc động là khi nghe tin bộ đội ta diệt được đồn địch nhưng có nhiều thương vong, Đại tướng đã lấy khăn lau nước mắt. Đồng chí bảo tôi mời Thông tấn xã đến nhắc nội dung đưa tin chiến sự trong lúc vẫn còn lên cơn sốt.

Lần thứ ba, là vào lúc ta mở chiến dịch Tây Bắc (1952), Đại tướng tập hợp cán bộ đi chiến dịch để nhận lệnh. Lúc đó, Bác Hồ đã đến gặp cán bộ trong Hội nghị để động viên quân đội trước khi ra trận.

Sau khi nghe Đại tướng báo cáo về kế hoạch chiến dịch, Bác Hồ chỉ thị cho cán bộ phải kiên quyết tiêu diệt địch ở Nghĩa Lộ, giải phóng vùng Tây Bắc.

Điều đáng ghi nhớ là giữa lúc trời mưa to mà Bác vẫn đến, sau khi vượt qua một con suối lớn nước chảy xiết. Bác phải vượt qua con suối bằng một dây mây do bộ đội cầm giữ để bác vin vào đó vượt qua suối.

Toàn thể cán bộ Hội nghị thấy Bác Hồ bị ướt sũng như vậy mà vẫn chống gậy đến với Hội nghị nên hết sức xúc động và lắng nghe lời bác dặn trước khi ra chiến trường.

Bác nói: “Nghe chú Văn báo cáo sự quan trọng của chiến dịch này nên Bác quyết tâm đến”. Bài học của Bác gửi cho cán bộ là “quyết tâm”, quyết tiêu diệt địch, giải phóng Tây Bắc.

“Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại cho nhân dân và Quân đội ta những bài học quý báu của một người lãnh đạo rất xứng đáng là người học trò gần gũi nhất của Bác Hồ kính yêu.” – Cố Thứ trưởng, Đại tá Hà Văn Lâu.

‘Giữ nâu sồng kháng chiến’

Đầu năm 1952, theo quyết định của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh chuẩn bị mở chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 2/1954), tôi được lệnh tham gia đoàn đại biểu ta do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn với tư cách chuyên gia quân sự, giúp đồng chí Tạ Quang Bửu phụ trách quân sự, đàm phán với Pháp. Từ đó, tôi không trực tiếp công tác với Đại tướng-Tổng tư lệnh.

Kết thúc Hội nghị Geneva, tôi trở lại Việt Bắc để chuẩn bị thi hành Hiệp nghị Geneva. Hội nghị thành lập Ủy ban Quốc tế giám sát thi hành Hiệp nghị. Để cộng tác với Ủy ban Quốc tế, bên ta thành lập Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng Tư lệnh bên cạnh Ủy ban Quốc tế và tôi được chỉ định làm Trưởng phái đoàn. Phía Pháp tiếp tục ở lại tại Thủ đô Hà Nội và chỉ rút hết sau 300 ngày.

Trước khi lên đường đi Hà Nội, tôi gặp Đại tướng để nhận lệnh. Đại tướng dặn: “Bác Hồ bận nên không tiếp được đồng chí nhưng Bác dặn đồng chí về Thủ đô thì phải giữ nâu sồng kháng chiến.”

Lúc về Thủ đô, đang còn địch chiếm đóng, một hôm Đại tướng đã bí mật đến nhà làm việc của Phái đoàn để nắm tình hình Thủ đô trước khi ta tiếp quản. Cuộc đi khảo sát của Đại tướng đã hoàn thành, bí mật được giữ vững. Đại tướng đã trực tiếp chỉ thị công tác cho Phái đoàn và trở về chiến khu Việt Bắc an toàn.

Sau khi Thủ đô giải phóng, thỉnh thoảng tôi được gặp Đại tướng để báo cáo tình hình và công tác, nhất là về thi hành Hiệp nghị Geneva ở miền Nam Việt Nam. Đại tướng đã chỉ thị nhiều công tác đấu tranh thi hành Hiệp nghị và trong Ủy ban Quốc tế.

Vì vừa làm công tác thi hành Hiệp nghị, vừa làm công tác Vụ trưởng Vụ miền Nam Bộ Ngoại giao nên năm 1974, tôi được chuyển hẳn sang Bộ và ít khi gặp Đại tướng.

Về hưu năm 1991, tôi vào ở miền Nam. Song mỗi dịp ra Hà Nội, tôi đều đến thăm gia đình Đại tướng. Mỗi lần đăng ký xin gặp Đại tướng, tôi đều được chấp nhận, dù đôi khi tôi đưa cả gia đình đến thăm nhà Đại tướng.

Khi trao đổi, Đại tướng nhắc tôi nên viết Hồi ký. Đây là điều tôi ân hận không thực hiện được. May thay, nhà văn Trần Công Tấn có cuốn sách “Hà Văn Lâu – Người đi từ bến làng Sình” viết về tôi, được Nhà Xuất bản Phụ nữ ấn hành, âu cũng có thể coi là một cuốn hồi ký văn học.

Gần đây, vì sức khỏe yếu nên tôi mới chỉ có một lần ra Hà Nội thăm Đại tướng tại Bệnh viện 108. Tuy nhiên, Tết nào tôi cũng nhận thiệp chúc Tết của Đại tướng và năm nào tôi cũng gửi hoa mừng thọ Đại tướng, lần cuối cùng là ngày 25/8/2013.

Đại tướng đã ra đi! Cuốn sách tôi viết về Đại tướng giờ sẽ không thể có chữ ký của người. Tôi đã lập bàn thờ để hàng ngày thắp nhang tưởng nhớ, noi gương Đại tướng và lời dặn của Bác, “giữ nâu sồng kháng chiến”, đến ngày nhắm mắt xuôi tay

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 7/10/2013.

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/dai-tuong-vo-nguyen-giap-vi-tong-tu-lenh-trum-chan-va-loi-dan-nau-song-khang-chien-155695.html