Đảm bảo quyền lợi của người di cư, tạo nền tảng để các vùng đồng bằng phát triển bền vững

Nhiều người di cư ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có đời sống vật chất, tinh thần, xã hội còn nhiều hạn chế. Do đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người di cư ở những địa phương tiếp nhận lao động di cư, qua đó tạo nền tảng để các vùng đồng bằng có thể phát triển bền vững.

Đây là nội dung được tập trung trao đổi tại Tọa đàm chuyên đề “Di cư nội địa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long: Vấn đề hiện nay và hàm ý chính sách” do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Viện Phát triển bền vững (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) phối hợp tổ chức ngày 24/9.

Quang cảnh Tọa đàm. Ảnh: D.T

Quang cảnh Tọa đàm. Ảnh: D.T

Trình bày kết quả nghiên cứu “Di cư nội địa ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long: Vấn đề hiện nay và hàm ý chính sách”, PGS,TS. Lê Quang Cảnh - Viện trưởng Viện Phát triển bền vững cho biết, hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có quy mô công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra rộng khắp nhưng có sự khác biệt về không gian nên tạo ra những vùng với sức “kéo” và “đẩy” di cư khác nhau. Từ đó dẫn tới những thách thức trong quản trị di cư nội vùng tại hai vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam.

Nghiên cứu được thực hiện ở 9 tỉnh, thành phố, trong đó 4 địa phương thuộc đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương Nam Định); 4 địa phương thuộc đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ, Long An, An Giang, Sóc Trăng) và 1 địa phương thuộc vùng Đông Nam Bộ là Bình Dương - tỉnh tiếp nhận nhiều người di cư từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Cũng theo ông Cảnh, di cư mang đến những đóng góp và cả thách thức cho phát triển kinh tế - xã hội và công tác quản lý ở các địa phương.

Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý di cư được thực hiện sát sao ở đồng bằng sông Cửu Long và có biểu hiện quá tải ở đồng bằng sông Hồng. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cư trú và quản lý lao động chưa chặt chẽ. Tuy hầu hết người di cư đều thực hiện khai báo tạm trú, đăng ký cư trú, nhưng người di cư chưa hiểu rõ và phân biệt giữa đăng ký tạm trú và thông báo lưu trú. Ngoài ra, chính sách ban hành và thực hiện ở cấp địa phương còn có sự phân biệt giữa người thường trú và người tạm trú; thậm chí nhiều chính sách chỉ quan tâm đến đối tượng hỗ trợ là người thường trú.

Cũng theo kết quả nghiên cứu, đa số người di cư chưa được hưởng các phúc lợi xã hội cơ bản. Nhiều người di cư không có chuyên môn thường làm lao động đơn giản trong các công ty hoặc làm tự do với công việc theo mùa vụ, không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội tự nguyện và chưa được hưởng chính sách trợ giúp xã hội ở địa phương điểm đến.

Đáng chú ý, phần lớn người lao động di cư sống trong các khu nhà trọ không đủ tiêu chuẩn, chật chội, ẩm mốc, không đủ đồ dùng cơ bản và đặc biệt không đảm bảo tiêu chuẩn về phòng, chống cháy nổ. Mặt khác, đời sống tinh thần, tình cảm gia đình của người di cư bị chia cắt và đây là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm giải quyết.

Về tiếp cận dịch vụ giáo dục cho con cái, nhiều người di cư khó tiếp cận dịch vụ giáo dục công lập. Các cơ sở giáo dục công lập ở nhiều địa phương có biểu hiện quá tải, bởi không dự báo được chính xác số lượng trẻ đến tuổi đi học trong năm học. Trẻ em di cư phải học tập trong cơ sở mầm non tư nhân với chi phí đắt đỏ hơn. Từ góc độ giới, người nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức về tâm lý, xã hội và hòa nhập cộng đồng hơn người nam di cư.

Ngoài ra, kết quả phỏng vấn người di cư ở hai vùng đồng bằng cho thấy, người di cư hầu như không tham gia quản trị địa phương và các hoạt động cộng đồng, văn hóa, thể thao ở nơi tạm trú. Hiếm khi người di cư tham gia họp và đóng góp ý kiến ở tổ dân phố và gần như không tham gia bầu cử ở nơi đến.

Dựa trên kết quả nghiên cứu thực địa và những kinh nghiệm, thực tiễn tốt ở các tỉnh, thành phố được chọn khảo sát, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị chính sách, nhằm đảm bảo ba quyền căn bản của những người di cư ở những địa phương tiếp cận lao động di cư, bao gồm quyền được công nhận, bảo vệ và hòa nhập cộng đồng của người di cư.

Theo đó, các cơ quan chức năng cần có quy hoạch và dành quỹ đất cho việc xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, trong đó không phân biệt người thường trú hay người tạm trú, bên cạnh việc đa dạng hóa hình thức cung ứng và loại hình nhà ở cho người lao động.

Ngoài ra, với khu vực chịu tác động nhiều bởi yếu tố “đẩy” như đồng bằng sông Cửu Long, cần khuyến khích di cư “con lắc”, tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp ở các vùng nông thôn nhằm giữ lao động ở lại trong vùng. Đồng thời, cần cải thiện kết nối giao thông thuận tiện ở vùng này để người dân đi về trong ngày giúp giảm sức ép về nhà ở tại những địa phương tiếp nhận lao động di cư…

Từ góc nhìn quốc tế, bà Sabina Stein - Trợ lý Đại diện thường trú, Trưởng phòng Quản trị và Tham gia, UNDP tại Việt Nam chia sẻ, công nhận và thực thi quyền của người di cư không chỉ là vấn đề công lý mà còn là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Do đó, để thực sự khai thác tiềm năng của di cư, cần thiết lập môi trường thúc đẩy sự hòa nhập của người di cư với các cộng đồng địa phương nơi đến, xây dựng cầu nối thúc đẩy gắn kết xã hội và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Trong đó, cần chú trọng đến việc tạo cơ hội học tập bình đẳng cho con em của người di cư tại các địa phương đến để hỗ trợ cho quá trình hòa nhập của người di cư. Đồng thời, cần giảm bớt khó khăn trong việc tiếp cận các thủ tục hành chính tại các địa phương tiếp nhận lao động di cư, để hỗ trợ người di cư một cách tích cực, hiệu quả hơn./.

DIỆU THIỆN

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/dam-bao-quyen-loi-cua-nguoi-di-cu-tao-nen-tang-de-cac-vung-dong-bang-phat-trien-ben-vung-34922.html