Đàn chó hoang ở Bù Đốp và nỗi ám ảnh về chiến tranh

Đó là hình ảnh đàn chó hoang trong cuốn tự truyện 'Đi tìm một vì sao' và cuốn nhật ký 'Nơi ấy là chiến trường' của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị trong thời gian ông công tác tại khu vực Bình Long, Lộc Ninh, Bù Đốp trong vai trò cán bộ tuyên huấn R, phóng viên chiến trường năm 1972, 1973 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta đang diễn ra khốc liệt, nhất là chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Nỗi ám ảnh đã bám chặt lấy trí óc khi tôi đọc những trang viết về đàn chó hoang tại Bù Đốp trong chương “Về miền Đông Nam Bộ” của cuốn tự truyện “Đi tìm một vì sao”. Thời điểm quân ta chiếm được Chi khu Bù Đốp, trước khi rời đi, quân địch đã hù dọa, xua người dân chạy về Phước Long bởi chúng đề phòng trên đường tháo chạy, nếu quân giải phóng bắn pháo đuổi theo đã có người dân làm bia đỡ đạn. Trong quá trình đi thực tế lấy tư liệu, viết bài gửi về hậu cứ, tác giả và nhóm công tác đã chứng kiến thị trấn Bù Đốp với hơn mười ngàn dân mà chỉ còn khoảng chục gia đình có người ở lại. Trong những ngôi nhà vắng chủ, trâu bò, heo gà có thể tự kiếm được chút lá cây, ngọn cỏ trong vườn chống đói, nhưng những con chó thì không có bất cứ thứ gì ăn được giữa một chiến trường đổ nát hoang tàn nên chúng trở thành những con thú hoang gầy trơ xương với ánh mắt hoang dại như có lửa. Chúng kết thành bầy lên tới hàng trăm con và đứng thành hình vòng cung phía ngoài nơi tổ công tác tuyên huấn R đang ở. Chúng giữ khoảng cách và không có ý định tấn công người mà có vẻ như khẩn cầu con người cho cái ăn. Mỗi lần các chiến sĩ ném ra chút thức ăn, lập tức diễn ra cuộc tranh giành, cắn xé nhau vô cùng kinh hãi.

Để cứu bầy chó đáng thương ấy, mỗi lần nấu ăn, tác giả đều thêm ít gạo rồi lựa khi chúng không chầu chực để rải cơm theo những khoảng cách phía sau nhà và ngoài sân, con nào may mắn tìm được thì ăn. Sự việc cứ diễn ra như thế suốt thời gian tổ công tác ở lại Bù Đốp. Nhưng nỗi ám ảnh người đọc không phải là những trận cắn xé tranh giành thức ăn kinh hoàng của bầy chó. Ngày rời Bù Đốp, dù tổ công tác đi rất sớm để tránh cái nắng gay gắt mùa hè, nhưng đàn chó hàng trăm con đã bám theo sau - một cuộc “tiễn chân” độc nhất vô nhị, không phải giữa những người ruột thịt, những đồng chí, đồng đội mà là của một bầy chó đã được các chiến sĩ nhường cho những chén cơm trong những ngày đói khát. Chúng nối nhau thành hàng dài theo sau như để cảm ơn các chiến sĩ đã cưu mang. Lúc đầu chúng đi hàng trăm con, về sau ít dần và cuối cùng chỉ còn một con màu lông nhạt cứ đi theo tác giả suốt chặng đường dài. Trời nắng gắt, thương con vật, tác giả giơ nắm cơm ra hiệu rồi bẻ một miếng để lại bên đường cho nó. Nhưng kỳ lạ thay, con vật chỉ ngửi miếng cơm rồi vội vàng chạy theo cho đến khi tổ công tác rẽ vào rừng cao su. Như hiểu được cuộc chia ly nên từ ngoài đường, con chó cứ đứng nhìn theo cho đến khi tác giả và tổ công tác mất hút trong rừng.

“Khuyển mã tri tình”là thành ngữ người xưa nói về tình cảm gắn bó của loài chó và ngựa với người chăm nuôi chúng. Nhưng hẳn tác giả không chỉ thể hiện triết lý về nhân sinh thế sự, về thế thái nhân tình khi viết về đàn chó hoang mà còn muốn nói rằng, trong chiến tranh có vô vàn tình huống khốc liệt. Dù ai đó có giàu sức tưởng tượng đến đâu cũng không thể lường hết những nỗi thống khổ kinh hoàng mà chiến tranh gây ra. Chẳng những nó vượt quá giới hạn chịu đựng của con người mà đến cả loài vật cũng lâm vào tình cảnh chết đói, chết khát một cách tuyệt vọng. Cả con người và con vật trong chiến tranh đều không được hưởng một cái chết bình thường như muôn loài được sinh ra trên trái đất. Hay câu chuyện giữa tác giả với thím Năm ở vùng ven Hữu Đạo trong một lần tác giả được mời dự đám giỗ. Thấy căn nhà chòi đơn sơ, nhỏ hẹp mà có tới 3 ban thờ nên tác giả thật thà hỏi thì thím Năm trả lời bằng giọng buồn rầu: “Ban giữa là tui thờ ổng. Ổng đi làm đồng đạp phải mìn, chết. Còn hai bên thờ hai thằng, là thằng Ba, thằng Tư. Một thằng đi lính quốc gia. Một thằng đi lính giải phóng. Phải lập hai ban thờ để anh em nó hằng ngày không nhìn thấy nhau. Hôm nay làm cơm cúng thằng Tư nên phải kéo bức rèm che ban thờ thằng Ba lại”! Đoạn đối thoại giữa tác giả và thím Năm đã phản ánh nỗi đau tột cùng, không thể nói thành lời, một nỗi đau chất chồng, giằng xé trái tim người vợ, người mẹ khi hai đứa con lại ở hai đầu chiến tuyến trước khi lìa đời.

Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé nhưng luôn bị đe dọa bởi hiểm họa ngoại xâm và hết lần này đến lần khác, dân tộc ta phải trải qua thử thách bằng những cuộc chiến tranh vệ quốc. Bao áng văn, bao thước phim cùng các loại hình nghệ thuật khác đã thể hiện sự ám ảnh về chiến tranh, để nhân loại đọc, xem và hình dung sự tàn khốc của nó. Thế nhưng, chiến tranh vẫn diễn ra liên miên trên khắp địa cầu, nơi này chưa tan khói bom thì ngòi lửa chiến tranh ở nơi khác đã lại được châm. Những nghĩa trang liệt sĩ với hàng ngàn mộ chí kéo dài từ Nam chí Bắc, cả những vùng hải đảo xa xôi; những vùng đất chết vì chất độc hóa học mà đế quốc Mỹ đã rải xuống các thôn, làng của Việt Nam; và thế hệ thứ hai, thứ ba của những người trực tiếp nhiễm chất độc hóa học vẫn phải mang khuyết tật về cơ thể và trí não… là những chứng tích khủng khiếp mà chiến tranh để lại trên mảnh đất hình chữ S này. Thế hệ hôm nay phải biết, phải thấu hiểu sự tàn khốc của chiến tranh thì mới thấy hết sự cống hiến, hy sinh to lớn của các thế hệ đi trước, mới hiểu hết giá trị của hòa bình và sống có trách nhiệm với đất nước.

Hai cuốn sách của đồng chí Phạm Quang Nghị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội có nhiều chương viết về chiến trường Bình Long, Lộc Ninh, Bù Đốp những năm 1972-1973

Thảo Linh

Nguồn Bình Phước: https://baobinhphuoc.com.vn/news/9/170644/dan-cho-hoang-o-bu-dop-va-noi-am-anh-ve-chien-tranh