Đào tạo nhân lực cho nền kinh tế số: Định vị nguồn nhân lực

Để Việt Nam trở thành quốc gia số vào năm 2030 như mục tiêu đặt ra, nhân lực số đóng vai trò cốt lõi, quyết định sự thành công của chuyển đổi số.

Sinh viên Trường Đại học Lạc Hồng (LHU) tham gia học tập, thực nghiệm trong phòng thực hành vi mạch bán dẫn. Ảnh: Quốc Hải

Sinh viên Trường Đại học Lạc Hồng (LHU) tham gia học tập, thực nghiệm trong phòng thực hành vi mạch bán dẫn. Ảnh: Quốc Hải

Đòi hỏi của bối cảnh mới

Tại Hội nghị tổng kết về kết quả triển khai chuyển đổi số và đô thị thông minh năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2025, TPHCM đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế số không chỉ đạt chỉ tiêu là 25% GRDP vào năm 2025, mà còn phải trở thành một trong những động lực tăng trưởng mới của thành phố, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế số, TPHCM triển khai 2 chương trình trọng tâm gồm chuyển đổi số thành phố và đề án xây dựng TPHCM thành đô thị thông minh. Muốn hoàn thành các mục tiêu trên, TPHCM đã ban hành chỉ thị, chương trình về trí tuệ nhân tạo, hạ tầng viễn thông, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số…

Ngoài ra, thành phố dành 1,22% ngân sách để chi cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số; ban hành chính sách thu hút chuyên gia cho lĩnh vực chuyển đổi số và công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng nhân lực cho chuyển đổi số tại TPHCM rất thiếu và yếu. Đơn cử như tại quận Bình Thạnh - địa bàn có hơn 550.000 dân nhưng người trực tiếp làm công nghệ thông tin của UBND quận này chỉ có 2 người.

Ông Trần Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hội Giáo dục Nghề nghiệp TPHCM, chuyên gia nhân lực, nhận định: Chuyển đổi số là chiến lược được các doanh nghiệp ưu tiên hàng đầu nên nhu cầu về nguồn nhân lực số cũng tăng cao.

Nguồn nhân lực số phải được đào tạo bài bản, chắc về chuyên môn, kỹ năng thực hành, vững về đạo đức, có năng lực làm chủ công nghệ, tính sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của công nghệ trong nền kinh tế bối cảnh cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, nguồn nhân lực số của Việt Nam đang thiếu về số lượng lẫn kỹ năng cần thiết để làm chủ các chương trình chuyển đổi số.

Đồng quan điểm, ThS Phạm Thái Sơn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông, Trường Đại học Công Thương TPHCM (HUIT) nhận định, việc thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng chuyên sâu về công nghệ, đặc biệt nhóm ngành công nghệ thông tin đang rất lớn.

Dù số lượng sinh viên công nghệ thông tin và các ngành liên quan tăng nhanh, nhưng tỷ lệ nhân sự đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp chưa cao. Nhiều sinh viên ra trường thiếu kỹ năng thực hành, tư duy giải quyết vấn đề và kinh nghiệm làm việc thực tế. Thêm vào đó, chương trình đào tạo của nhiều trường đại học chưa cập nhật kịp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (blockchain), an ninh mạng.

“Trong khi doanh nghiệp cần nhân lực có thể làm việc ngay thì nhiều sinh viên vẫn cần đào tạo lại sau khi tốt nghiệp. Đặc biệt, nhân lực số cần có kỹ năng làm việc nhóm, quản lý dự án, giao tiếp và tư duy sáng tạo…, thế nhưng đây là điểm yếu của nhiều sinh viên khối ngành công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin hiện nay”, ông Sơn thừa nhận.

Trên thực tế, theo báo cáo về thị trường IT Việt Nam 2023 của TopDev, nhu cầu đến năm 2025, Việt Nam cần tới 700.000 nhân lực công nghệ thông tin, trong đó số lượng hiện tại mới đạt khoảng 530.000 người. Tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin ước đạt 1,1% trong tổng số 51 triệu lao động cả nước. Tỷ lệ này tương đối thấp so với một số quốc gia như Mỹ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%)…

Đáng lưu ý, trong số hơn 57.000 sinh viên IT tốt nghiệp mỗi năm tại Việt Nam, chỉ có khoảng 30% nhân sự đáp ứng được kỹ năng và chuyên môn yêu cầu thực tế mà doanh nghiệp đặt ra, 70% còn lại cần được bố trí đào tạo thêm tại doanh nghiệp trong 3 - 6 tháng để đạt hiệu quả công việc tương ứng.

Như vậy, thiếu hụt lao động số không chỉ xuất phát từ việc đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng đủ số lượng, mà còn xuất phát từ chênh lệch giữa chất lượng lao động với nhu cầu của thị trường. Số lượng ít, chất lượng có đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động và doanh nghiệp là câu hỏi cần được giải đáp để từ đó có giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

 Khách hàng trải nghiệm dịch vụ ngân hàng số của HDBank. Ảnh: Quốc Hải

Khách hàng trải nghiệm dịch vụ ngân hàng số của HDBank. Ảnh: Quốc Hải

Yêu cầu của giáo dục 5.0

Theo Phó Chủ tịch Hội Giáo dục Nghề nghiệp TPHCM Trần Anh Tuấn, sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo sẽ ảnh hưởng đến lực lượng lao động. Đặc điểm thị trường lao động là tích hợp trí tuệ nhân tạo vào lực lượng lao động. Từ đó, thay đổi chất lượng cơ cấu, hình thành những nhóm ngành nghề theo hướng tích hợp, phù hợp cơ cấu công nghệ số, hướng đến yêu cầu giáo dục thời đại 5.0 từ nền tảng giáo dục 4.0 là ứng dụng, công nghệ.

“Giáo dục và đào tạo 5.0 không chỉ tập trung vào kiến thức mà tiến xa hơn với ứng dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, học máy, thực tế ảo và thực tế tăng cường để tạo ra môi trường học tập thông minh và cá nhân hóa, khả năng xã hội, tinh thần và an toàn của học sinh - sinh viên, tương tác giữa con người và công nghệ”, ông Tuấn nói.

Vì vậy, chuyên gia này dự báo, thị trường lao động Việt Nam những năm tới sẽ nổi lên 4 xu hướng phát triển chính: Gia tăng số lượng lao động trên các nền tảng công nghệ; chuyển dịch nghề nghiệp gắn với kỹ năng mềm; lao động giản đơn sẽ trở nên yếu thế; xu hướng thị trường lao động quốc tế “khởi nghiệp, tự tạo việc làm” gia tăng.

PGS.TS Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng (LHU) chia sẻ, nguồn nhân lực số là lực lượng lao động có khả năng làm chủ và vận hành các thiết bị công nghệ số, sở hữu tư duy sáng tạo, đột phá và có khả năng thích ứng nhanh với môi trường làm việc cùng những tiến bộ khoa học công nghệ mới. Nguồn nhân lực số đóng vai trò then chốt trong triển khai và hiện thực hóa nền kinh tế số, quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế số.

Theo ông Quỳnh, LHU là đơn vị tiên phong trong hoạt động chuyển đổi số. Toàn bộ công tác quản lý tại LHU được thực hiện thông qua các phần mềm hiện đại. Nhà trường đã phát triển 45 phần mềm phục vụ công tác đào tạo và chuyển đổi số 70% quy trình nghiệp vụ.

Hệ thống phát triển phần mềm nhanh (fast project) của LHU cho phép phát triển và gỡ lỗi nhanh hơn 5 - 10 lần so với phương pháp truyền thống. Mỗi cán bộ, giảng viên và sinh viên được cấp tài khoản duy nhất để truy cập toàn bộ tiện ích và chức năng của hệ thống công nghệ thông tin với độ bảo mật cao.

“Thời gian qua, LHU tổ chức tập huấn cho nhiều trường đại học khác về phát triển phần mềm và chia sẻ kinh nghiệm trong chuyển đổi số. Đặc biệt, trước sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), LHU đã tiên phong nghiên cứu và triển khai nhiều hoạt động ứng dụng AI, giúp cán bộ và giảng viên nâng cao hiệu quả công việc.

Nhiều trường đại học trên cả nước đã mời LHU tập huấn về khai thác AI trong giảng dạy và quản lý. Nhờ sự hỗ trợ của AI, hiệu suất công việc tăng đáng kể; những kế hoạch hoạt động trước đây cần 1 - 2 tuần để hoàn thành, nay chỉ mất 1 - 2 ngày với sự trợ giúp của AI”, ông Quỳnh chia sẻ thêm.

Chuyên gia này góp ý, các cơ sở giáo dục đào tạo công nghệ thông tin cần cập nhật kiến thức mới để phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. Chương trình đào tạo cần cập nhật xu thế công nghệ mới như Internet vạn vật IoT, AI, robot, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận sớm.

Đồng thời, bổ sung vào chương trình các hoạt động đào tạo kỹ năng số, kỹ năng mềm và ngoại ngữ đạt chuẩn quốc tế cho nhân lực trong chuyển đổi số như: Sử dụng các công cụ trên nền điện toán đám mây và dữ liệu nâng cao; an ninh mạng; tự học tập linh hoạt; sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp, ngoại ngữ chuyên ngành.

ThS Phạm Thái Sơn đề xuất các trường đại học nên áp dụng mô hình học trực tuyến kết hợp (blended learning) và sử dụng AI để cá nhân hóa lộ trình học tập. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống mô phỏng, phòng lab ảo nhằm tạo điều kiện cho sinh viên thực hành liên tục, đồng thời ứng dụng thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) vào giảng dạy các lĩnh vực công nghệ thông tin.

Đặc biệt, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo kỹ năng mềm và tư duy sáng tạo, bởi đây là yếu tố giúp sinh viên thích nghi và làm việc hiệu quả trong môi trường lao động hiện đại.

“Nên thành lập các trung tâm nghiên cứu và phòng thí nghiệm về AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng. Khuyến khích giảng viên và sinh viên tham gia các dự án nghiên cứu, khởi nghiệp công nghệ. Đồng thời thúc đẩy sự kết nối giữa trường đại học và các doanh nghiệp trong nghiên cứu, phát triển sản phẩm công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin”, ông Sơn nói thêm.

 Sinh viên Trường Đại học Công nghệ TPHCM và một số trường đại học tham gia trải nghiệm các ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập. Ảnh: X.D

Sinh viên Trường Đại học Công nghệ TPHCM và một số trường đại học tham gia trải nghiệm các ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập. Ảnh: X.D

Sinh viên phải trở thành công dân số

Ông Trần Anh Tuấn cho rằng, để có lực lượng lao động số thì trước hết mỗi sinh viên phải trở thành “công dân số”. Theo đó, người học cần trang bị những kỹ năng cần thiết để định hướng nghề nghiệp tương lai, có cơ hội nâng cao kinh nghiệm, phát triển các kỹ năng số mới; giúp tăng cường khả năng thích ứng, chống chịu với cú sốc kinh tế và xã hội đang tác động mạnh mẽ đến cơ cấu việc làm, đặc biệt trong các lĩnh vực chuyển đổi số, khoa học ứng dụng công nghệ AI, dữ liệu lớn (Big Data), máy học (machine learning), robotics... để trở thành công dân số trong thời đại mới, đóng góp cho sự phát triển của bản thân và đất nước.

Muốn trở thành lao động số, theo ông Tuấn, người lao động cần chủ động học hỏi để phát triển và thể hiện tốt các kỹ năng giải quyết vấn đề, giao tiếp hiệu quả, ngoại ngữ và thích ứng với thay đổi... Đặc biệt, phải nắm bắt các xu hướng làm việc mới, biết áp dụng AI vào công việc để nâng cao năng suất lao động. Mỗi người tự “làm giàu” vốn kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực làm chủ bản thân, tri thức, kỹ thuật và công nghệ mới… để luôn thích ứng với biến đổi nhanh của xã hội trong thời kỳ hội nhập và công nghệ số.

Ngoài ra, chuyên gia này kiến nghị cần xây dựng hệ sinh thái với sự liên kết, chuyển giao 3 bên giữa doanh nghiệp, nhà trường và người học. Doanh nghiệp có thể tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo với nhà trường, hay trực tiếp giảng dạy kỹ năng cho học viên, đặt hàng cụ thể cho các cơ sở đào tạo.

Điều này không chỉ đảm bảo nguồn nhân lực được đào tạo ra có thể đáp ứng ngay yêu cầu của doanh nghiệp, mà sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo mang tính hàn lâm với hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển, sáng tạo và đổi mới các công nghệ hiện có.

Theo Penny Crosman, AI chắc chắn sẽ tác động đến việc làm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và thay thế 1,2 triệu nhân viên ngân hàng vào năm 2030. Cụ thể có 485.000 giao dịch viên, 174.000 nhân viên cho vay, 219.000 nhân viên dịch vụ khách hàng và nhân viên hỗ trợ cho vay được thay thế bằng chatbot, trợ lý giọng nói, xác thực tự động và công nghệ sinh trắc học, 96.000 quản lý tài chính bị mất việc do áp dụng AI.

Quốc Hải

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/dao-tao-nhan-luc-cho-nen-kinh-te-so-dinh-vi-nguon-nhan-luc-post723112.html