Đào tạo y khoa ở Việt Nam: Chẳng giống ai
Có ý kiến cho rằng đào tạo y khoa tại Việt Nam vẫn đứng 'mình một sân', không giống ai trên thế giới. Muốn hội nhập, các trường đại học (ĐH) đào tạo nhóm ngành sức khỏe của Việt Nam phải tìm được điểm chung với cộng đồng y khoa thế giới…
Không giống ai
Trao đổi với phóng viên, GS.TS Lê Ngọc Thành, Hiệu trưởng Trường ĐH Y dược (ĐH Quốc gia Hà Nội) thốt lên rằng, đào tạo y khoa tại Việt Nam “không giống ai”. Trước khi đến với giáo dục, GS Ngọc Thành làm quản lí bệnh viện. Bảy năm qua được trao gần như toàn quyền để phát triển Trường ĐH Y Dược, ông nhận thấy đào tạo bác sĩ y khoa của Việt Nam đang không đứng cùng sân chơi với thế giới.
GS Ngọc Thành cho biết, hiện trên thế giới có một số “trường phái” đào tạo y khoa nổi tiếng. Ví dụ, đào tạo theo mô hình của Pháp, thời gian đào tạo bác sĩ đa khoa là 9 năm, học tiếp 2-3 năm thành bác sĩ chuyên khoa, tổng thời gian khoảng 11-12 năm. Mô hình của Mỹ, sinh viên cần hoàn thành 4 năm ĐH với chương trình tiền y khoa (pre‑med). Sau đó, sinh viên phải vượt qua kì thi đầu vào để được xét tuyển vào các trường y, học tiếp 4 năm chương trình MD (Medical Doctor), với 2 năm lí thuyết và 2 năm thực hành lâm sàng. Giai đoạn tiếp theo, sinh viên tiếp tục thực tập nội trú (residency) kéo dài từ 3 - 7 năm tùy chuyên ngành. Ở Nhật Bản, thời gian đào tạo y khoa chuyên ngành thường kéo dài từ 11-13 năm.
Hiện nay, ngành y khoa của Việt Nam tuyển sinh trực tiếp từ bậc THPT. Sinh viên trải qua 6 năm học bác sĩ đa khoa bao gồm đào tạo khoa học cơ bản, tiền lâm sàng và đào tạo lâm sàng. Sau khi tốt nghiệp, người học có thể theo 2 hướng: Học 18 tháng thực hành trong các bệnh viện để có chứng chỉ hành nghề bác sĩ đa khoa (khám ban đầu); học tiếp 3 năm bác sĩ nội trú để trở thành bác sĩ chuyên khoa hoặc lựa chọn học tiếp lên chuyên khoa I, chuyên khoa II. Tuy nhiên, không chỉ bác sĩ đa khoa, những người hành nghề khám chữa bệnh tại Việt Nam đều phải có từ 3-12 tháng thực hành để được cấp giấy phép hành nghề.
Như vậy, thời gian đào tạo bác sĩ chuyên khoa của Việt Nam ngắn hơn các nước và có sự “vênh” đáng kể về lộ trình đào tạo. Do đó, để hội nhập quốc tế, GS Lê Ngọc Thành đề xuất nhập khẩu chương trình đào tạo từ các nước tiên tiến. Theo ông, Singapore, Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc) cũng nhập khẩu chương trình đào tạo y khoa.
“Tôi ủng hộ nhập khẩu mô hình của Pháp nhưng đầu vào cần linh hoạt (như mô hình của Mỹ). Chúng tôi đã đề nghị Bộ Y tế và đã có những ý kiến đồng thuận về việc “nhập khẩu” giáo trình, chương trình giảng dạy bác sĩ từ Pháp. Tại Pháp cũng đã có trường y khoa sẵn sàng chuyển giao cho chúng ta chương trình và giáo trình của họ”, GS Lê Ngọc Thành nói. Do mô hình đào tạo của Việt Nam không giống quốc gia nào nên các trường trên thế giới cũng không công nhận văn bằng của Việt Nam.
Vấn đề quan trọng nữa với bác sĩ để hội nhập với quốc tế bên cạnh chuyên môn là ngoại ngữ. Việc này còn tạo lợi thế các trường ĐH y của Việt Nam có thể đào tạo theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Ví dụ Trường ĐH Y dược (ĐH Quốc gia Hà Nội) năm nay mở 4 lớp đào tạo thạc sĩ cho học viên Ấn Độ và dạy bằng tiếng Anh.
Bắt đầu nhập khẩu

Sinh viên Trường ĐH Y Hà Nội đang thực tập tại cơ sở thực hành Ảnh: Hữu Linh
Tại Trường ĐH Y Hà Nội, GS.TS Nguyễn Hữu Tú, Hiệu trưởng Nhà trường cho biết, mất 10 năm để đổi mới chương trình đào tạo bác sĩ y khoa. Trong đó 4 năm chuẩn bị, 6 năm đào tạo vừa làm vừa rút kinh nghiệm (vừa đủ thời gian đào tạo 1 khóa bác sĩ y khoa). Theo GS Tú, chương trình đổi mới đào tạo bác sĩ y khoa không đơn thuần là thay đổi nội dung giáo trình, mà là sự cải cách toàn diện về tư duy, phương pháp giảng dạy, đánh giá và tổ chức đào tạo.
Trường ĐH Y Hà Nội đã mạnh dạn lựa chọn mô hình đào tạo tiên tiến của Úc làm nền tảng, đồng thời xây dựng một chương trình mang bản sắc riêng, phù hợp với bối cảnh y tế Việt Nam. Để hiện thực hóa điều đó, tập thể cán bộ, giảng viên đã “bắt đầu lại từ đầu”, như học tập các nguyên lí giáo dục y học hiện đại, thiết kế khung chương trình, thử nghiệm và điều chỉnh liên tục trong quá trình triển khai.
Dự án đổi mới giáo dục y khoa của Trường ĐH Y Dược TPHCM theo xu hướng của giáo dục y khoa hiện đại trên thế giới được khởi động từ năm 2010. Dự án dài hạn nhằm đổi mới chương trình đào tạo y khoa 6 năm dựa trên chuẩn năng lực và tích hợp. Chương trình được chuẩn bị và xây dựng với sự hỗ trợ của Bộ Y tế và Ngân hàng Thế giới, cố vấn kĩ thuật từ các chuyên gia của ĐH Harvard (Mỹ), ĐH Geneva (Thụy Sĩ) và ĐH Texas Tech University Health Science Center El Paso (Mỹ). Chương trình đào tạo đổi mới toàn diện đã bắt đầu đưa vào giảng dạy từ năm 2016.
Thực hiện Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị (về đột phá trong giáo dục và đào tạo), Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết có 140 trường ĐH công lập trong diện sáp nhập, sắp xếp lại. Ghi nhận cho thấy trong số này có các trường đào tạo khối ngành sức khỏe. Trong đó, có đề xuất sáp nhập các trường này vào trường đại học đa ngành. Tuy nhiên, thực tế, đào tạo nhân lực khối ngành sức khỏe ở Việt Nam có những đặc thù riêng biệt, khác hẳn so với các ngành học khác. Những đặc thù này không chỉ ảnh hưởng đến chương trình học mà còn tác động sâu sắc đến cả quá trình phát triển nghề nghiệp sau này.
Sinh viên ngành Y gặp khó
Sinh viên ngành Y đang gặp nhiều bất lợi về tài chính như: Học phí thuộc nhóm cao nhất trong 7 nhóm ngành nghề đang được đào tạo tại Việt Nam; thời gian đào tạo liên tục kéo dài gấp đôi, thậm chí gấp ba các ngành khác; không có thời gian làm thêm. Trong khi đó, lương khi đi làm không khác biệt so với các ngành nghề khác.
GS Lê Ngọc Thành cho rằng, từ khi sinh viên vào trường, nên minh bạch về lương/thu nhập nếu sinh viên chọn làm việc trong các lĩnh vực hiện rất khó thu hút người học là lao, phong, tâm thần hoặc thu hút bác sĩ về làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Cũng rất nhiều sinh viên thích chuyên ngành này nhưng thu nhập của các bác sĩ thông thường thấp hơn so với các chuyên ngành như sản, nhi, răng hàm mặt, tai mũi họng... Để đủ nhân lực những ngành đặc thù, GS Lê Ngọc Thành đề xuất cần sự khác biệt trong lương. Ví dụ bác sĩ sản 10 triệu đồng/tháng nhưng lĩnh vực ưu đãi (chuyên ngành khó tuyển dụng, bác sĩ về vùng sâu, vùng xa) là 20 triệu đồng thì sẽ thu hút người học ngay từ đầu.
Vì thế, chúng ta cũng có lí do để cùng đổi mới về chương trình, giáo trình, rất cần siết lại khâu tuyển sinh và đào tạo, những nơi mà đầu vào ngành bác sĩ thấp quá, chất lượng đào tạo cũng thấp thì có nên duy trì hay không? Hay tỉ lệ chưa đạt thông qua qua đánh giá của Hội đồng Y khoa còn quá cao ở cơ sở đào tạo nào còn cao thì có nên xem xét dừng đào tạo không?
Mới đây, cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị Bộ Y tế xem xét miễn, giảm học phí cho sinh viên ngành Y nhằm khuyến khích nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế. Trả lời cử tri, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho hay, chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên ngành y có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho hệ thống y tế quốc gia, nhất là trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân ngày càng tăng.

Giảng viên, bác sĩ Trường ĐH Y Dược (ĐH Quốc gia Hà Nội) tập huấn sơ cấp cứu cơ bản dành cho cán bộ và sinh viên ĐH Quốc gia Hà Nội Ảnh: Nghiêm Huê
Về chính sách hiện hành, theo bà Lan, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định cụ thể hỗ trợ đào tạo nhân lực y tế, tập trung vào các chuyên ngành còn thiếu nhân lực và các lĩnh vực đặc thù. Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 quy định hỗ trợ học phí và sinh hoạt phí cho người học các chuyên ngành tâm thần, giải phẫu bệnh, pháp y, pháp y tâm thần, truyền nhiễm và hồi sức cấp cứu. Nghị định 81/2021, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 97/2023, nhà nước miễn học phí cho học sinh, sinh viên theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH đào tạo các chuyên ngành lao, phong, tâm thần, pháp y, giải phẫu bệnh.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan khẳng định, Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan để nghiên cứu, đánh giá hiệu quả thực thi các chính sách hiện hành và tham mưu Chính phủ và Thủ tướng xem xét, phê duyệt các đề án, chính sách mới trong việc hỗ trợ miễn, giảm học phí cho sinh viên ngành y nói chung, đặc biệt là đối với những chuyên ngành cần ưu tiên trong giai đoạn 2026-2030.
Hiện nay, cả nước hiện có 34 trường ĐH đào tạo ngành y khoa. Năm học 2025-2026, học phí ngành y khoa dự kiến từ hơn 31 triệu đồng- 530 triệu đồng/năm học/sinh viên; nhiều trường tăng so với năm ngoái.
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/dao-tao-y-khoa-o-viet-nam-chang-giong-ai-post1782774.tpo