Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024, giúp các em học sinh tham khảo, dễ dàng so sánh với kết quả bài thi vào lớp 10 của mình thuận tiện hơn.

Mục lục

Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024
Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1.
Câu 2.
Câu 3.
Câu 4.
II. LÀM VĂN
Câu 1
Câu 2
Bài văn tham khảo

Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024

Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2024 - 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình được tổ chức trong 2 ngày (04 và 05/6/2024). Bài thi vào lớp 10 môn Văn Quảng Bình thi theo hình thức tự luận, với thời gian làm bài 120 phút, tổ chức thi sáng ngày 4/6.

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Quảng Bình 2024

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1.

Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.

Câu 2.

Ta học được: kiên trì, nhẫn nại và lòng dũng cảm.

Câu 3.

Phép liên kết lặp: Nhân là

Tác dụng: nhằm nhấn mạnh “nhân” có rất nhiều ý nghĩa từ đó thể hiện sự sâu sắc của tiếng Việt.

Câu 4.

Dựa vào bài đọc hiểu học sinh tự rút ra cho mình bài học phù hợp.

Gợi ý: Phải luôn kiên trì, nhẫn nại, ...

II. LÀM VĂN

Câu 1

* Nêu vấn đề: Ý nghĩa của những cống hiến trong cuộc sống.

* Bàn luận:

Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách khác nhau miễn là hợp lí, khoa học, thuyết phục. Có thể theo hướng sau:

- Cống hiến: Là sự hi sinh, đóng góp một cách âm thầm không khoa trương, không để nhiều người biết.

- Ý nghĩa của sự cống hiến:

+ Sự cống hiến sẽ giúp con người đẩy xa cái tôi cá nhân, sự ích kỉ, nhỏ nhen của mình để từ đó hướng tới những điều tốt đẹp hơn.

+ Người sống cống hiến sẽ là người có tình yêu thương, tính tự giác cao, từ đó làm cho cuộc sống của mình ngày càng phát triển theo hướng tốt hơn.

* Kết đoạn: Bài học nhận thức và hành động.

- Liên hệ bản thân.

Học sinh chú ý đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho mỗi luận điểm của mình.

Câu 2

1. Giới thiệu chung

- Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.

- “Nói với con” là một trong những thi phẩm đặc sắc làm nên tên tuổi của ông, được viết vào năm 1980.

- Đoạn thơ là lời khuyên của cha với con, nên sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình.

2. Phân tích

- Những phẩm chất cao quý của người đồng mình:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

+ Dòng thơ đầu được lặp lại: “người đồng mình” là cách gọi thể hiện sự gần gũi, thân thương như trong một gia đình. “Thương lắm” – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ.

+ Từ ngữ giàu sức gợi: “cao” “xa” vừa gợi hình ảnh miền núi cao vừa gợi điều kiện sống khó khăn, vất vả. “Nỗi buồn” “chí lớn” thể hiện bản lĩnh vững vàng, ý chí kiên cường của người đồng mình.

=> Lời thơ thể hiện niềm tự hào về phẩm chất tốt đẹp của người miền núi.

- Tác giả khái quát lên vẻ đẹp truyền thống của người miền cao:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Con quê hương thì làm phong tục

+ Hình ảnh “người đồng mình”: vóc dáng, hình hài nhỏ bé, “thô sơ da thịt”, họ chỉ có đôi bàn tay lao động cần cù nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé, yếu hèn. Họ dám đương đầu với gian lao, vất vả, họ lớn lao về ý chí, cao cả về tâm hồn.

+ Công lao vĩ đại của người đồng mình: “đục đá kê cao quê hương” – xây dựng quê hương, tạo nên ruộng đồng, dựng lên nhà cửa, bản làng, làm nên giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương. “Làm phong tục” – tạo nên bao nền nếp, phong tục đẹp, làm nên bản sắc riêng của cộng đồng.

=> Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình. Nhắn nhủ con phải biết kế thừa, phát huy những truyền thống đó.

- Từ đó, người cha khuyên con biết sống theo những truyền thống của người đồng mình:

+ Điệp từ “sống” khởi đầu 3 dòng thơ liên tiếp, tô đậm mong ước thiết tha, mãnh liệt của cha dành cho con.

+ Ẩn dụ “đá”, “thung” chỉ không gian sống của người miền cao, gợi lên những nhọc nhằn, gian khó, đói nghèo. Người cha mong con “không chê” tức là biết yêu thương, trân trọng quê hương mình.

+ So sánh “như sông”, “như suối”: lối sống hồn nhiên, trong sáng, mạnh mẽ, phóng khoáng, vượt lên mọi gập ghềnh của cuộc đời.

+ Đối “lên thác xuống ghềnh”: cuộc sống không dễ dàng, bằng phẳng, cần dũng cảm đối mặt, không ngại ngần.

=> Cha khuyên con tiếp nối tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra của người đồng mình và cả lòng can đảm, ý chí kiên cường của họ.

- Để rồi, bài thơ khép lại bằng lời dặn dò vừa ân cần, vừa nghiêm khắc của người cha:

+ “Thô sơ da thịt” được nhắc lại để nhấn mạnh những khó khăn, thử thách mà con có thể gặp trên đường đời, bởi con còn non nớt, con chưa đủ hành trang mà đời thì gập ghềnh, gian khó.

+ Dẫu vậy, “không bao giờ nhỏ bé được” mà phải biết đương đầu với khó khăn, vượt qua thách thức, không được sống yếu hèn, hẹp hòi, ích kỉ. Phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình. Lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con.

3. Tổng kết

- Nội dung:

+ Thể hiện tình cảm sâu nặng mà người cha dành cho con. Từng lời dặn dò, khuyên nhủ để con biết sống sao cho xứng đáng với gia đình, quê hương.

+ Bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở và niềm tự hào về người đồng mình của tác giả.

- Nghệ thuật: Từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, in đậm lối tư duy trong sáng, hồn nhiên, sinh động của người miền núi. Giọng điệu khi ân cần, tha thiết; khi mạnh mẽ, nghiêm khắc.

Bài văn tham khảo

A. Mở bài

Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, thế nhưng hầu hết các bài thơ khi viết về đề tài tình cảm gia đình đều nói về tình mẫu tử. Các tác phẩm về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" của Y Phương là 1 trong những tác phẩm đó. Với giọng điệu thổ cẩm ngọt ngào, bài thơ mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với con để ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.

B. Thân bài

Ra đời năm 1980, bài thơ như là những lời nói xuất phát từ tấm lòng cha, chứa đựng đầy yêu thương và sự ấm áp, thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, mang đậm chất dân tộc miền núi trong từng câu chữ. Bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mới mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kỷ niệm gần gũi, gắn bó nhất với mỗi con người và nâng lên thành lẽ sống chung. Bài thơ mở đầu với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Khung cảnh ấy đẹp như vẽ, một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Bằng ý thơ đối ứng hình ảnh đứa trẻ ngây thơ chập chững tập đi, ngọng nghịu tập nói trong vòng tay thương yêu, chăm sóc của cha mẹ hiện lên thật rõ nét. Không khí của một gia đình ấm êm, hạnh phúc được diễn tả bằng cách sử dụng hình ảnh thực và cụ thể.

Cha như dang tay che chở từng bước đi lẫm chẫm của con, cha lo lắng sợ con vấp ngã. Mỗi bước đi của con đều có cha mẹ ở bên dìu dắt, mỗi tiếng cười, tiếng nói đều có cha mẹ ở bên khuyến khích. Điệp ngữ “Bước tới” thể hiện niềm sung sướng và đầy tự hào của cha khi thấy con đang lớn lên. Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hương thơ mộng và tình quê hương sâu nặng:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Người cha tự hào về những người cùng sống trên mãnh đất quê hương đã nuôi dưỡng cho con mình nên vóc nên hình và đã bật lên câu “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Cuộc sống lao động tươi vui và cần cù của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh đẹp “Đan lờ cài nan hoa”, “vách nhà ken câu hát” một cách thật cụ thể và sinh động. Đồng thời các động từ “đan”, “cài” và “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự gắn bó, quấn quýt trong lao động của “người đồng mình”.

Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình”tươi vui, mà rất ngọt ngào . Công việc tuy nặng nhọc, vất vẻ nhưng “ người đồng mình” luôn lạc quan, vui vẻ “hát”, “cài nan hoa”. Tất cả những hình ảnh ấy vừa nói lên vẻ đẹp cao quý của “người đồng mình” vừa nhắc nhở con phải biết yêu thương, quý trọng “người đồng mình” vì họ đã cho con tình yêu thương, bảo bọc con lớn khôn.

Thiên nhiên quê hương cũng thật đẹp, luôn dành cho con những gì tinh túy nhất. “Rừng” và “con đường” là bóng dáng của quê hương luôn dang rộng vòng tay đã được tác giả nhân hóa, dạy cho con biết rằng núi rừng quê hương, thiên nhiên đã chở che, nuôi dưỡng con người về cả tâm hồn và lối sống. Con đã lớn lên trong nghĩa tình của quê hương như thế.

Qua những câu thơ vừa tả thực lại vừa đậm chất trữ tình, cha mong con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc sống hơn . Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ đã nghĩ về cuội nguồn hạnh phúc, “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” và cho con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu.

Dặn dò con về quê hương, về “đồng mình", cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống ,đã trưởng thành. Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình":

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

“Người đồng mình” không chỉ tình nghĩa và tài hoa mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, “thương lắm con ơi”. Trong bao gian khổ, khó khăn thử thách, bao niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời trải dài theo năm tháng, “người đồng mình” đã rèn luyện , hun đúc chí khí, rèn luyện bản thân. Câu thơ bốn chữ, đối nhau như tục ngữ, đúc kết một thái độ một phương châm ứng xử cao quý. Lấy chiều “cao” của trời, chiều “xa” của đất để “ đo nỗi buồn”, để “ nuôi chí lớn”.

Câu thơ thể hiện một bản lĩnh sống cao đẹp của người dân miền núi, của con người Việt Nam. Lời tâm tình của người cha nói với con cũng là lời khuyên răn con phải biết trân trọng mảnh đất quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên. Người cha tự hào về “người đồng mình” sống vất vả và mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dẫu cực nhọc, đói nghèo. Người cha mong con chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, bằng niềm tin vững vàng:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Với các hình ảnh so sánh, ẩn dụ và sử dụng thành ngữ, cha đã nói với con về những tính cao đẹp của “người đồng mình”. Điệp ngữ “ sống” vang lên ba lần như lời khẳng định tâm thế, bản lĩnh và dáng đứng dũng mãnh của “người đồng mình”. Đó là sống vất vả nhưng vẫn mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu cho quê hương còn đói nghèo cực nhọc.

Con phải sống có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua thử thách gian nan. Đó là những điều mà cha “vẫn muốn”, cha mong con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động thấm thía vào lòng người. Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với con, “ người đồng mình” tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé:

“ Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Để phản ánh bản chất giản dị của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, tác giả dùng cách nói cụ thể, hình ảnh chân thật “ thô sơ da thịt”. “ Người đồng mình” mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “ không hề nhỏ bé” về tâm hồn, về khí phách và ý chí nghị lực. Từ đó để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “ nhỏ bé” tầm thường.

Họ mong ước xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Với lối nói độc đáo của người dân tộc miền núi “ người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”, người cha đã cho con thấy tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của “người đồng mình”. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương. Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình, lời của cha càng trở nên thật tha thiết:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”

Người cha đã nhắc con khi “ lên đường” không bao giở sống “ nhỏ bé” trước thiên hạ. Phải biết lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người lao động để vươn lên. Người cha mong con có đủ sức mạnh, niềm tin để đối mặt với những khó khăn mà con sẽ phải gặp, cũng khuyên con bài học đạo lý làm người, mong muốn con phải biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ tự tin, đủ sức mạnh để vững bước trên đường đời.

Hai tiếng “nghe con” đầy trìu mến, yêu thương kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của người cha đối với đứa con thân yêu của mình. Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, triều mến, chân tình và rất mới lạ trong phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng.

C. Kết luận

“Nói với con” được viết bằng thể thơ tự do bay bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Lời nhắn nhủ ân cần của người cha với con mình cũng là nhắn nhủ mà người cha nào cũng muốn con mình mang theo như một hành trang trong cuộc đời.

Qua đó ta phải biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời cũng cần phải biết yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời.

Hùng Cường

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/dap-an-de-thi-vao-lop-10-mon-ngu-van-tinh-quang-binh-2024-215432.html