Đất đai qua văn bản, chúc thư thuở xưa
Trong nhiều văn bản, chúc thư bằng chữ Hán Nôm do người Quảng Ngãi lập cách đây mấy trăm năm về trước có ẩn chứa những câu chuyện thú vị về cách hành xử của con người với đất đai.
Chia đất cho người... đã khuất
Năm Tự Đức thứ 15 (năm 1862), bà Thị Khánh (80 tuổi), ở phường Lý Sơn An Hải (nay thuộc đặc khu Lý Sơn) lập di chúc để phân chia đất đai hương hỏa thờ phụng cho các con. Theo đó, tất cả con của bà, dù trai hay gái đều được phân chia đất đai.
Di chúc này còn có một điều khá thú vị là, trong số những người con của bà Khánh, có người con gái tên Thị Diễn, dù đã mất nhưng vẫn được bà chia đất và tài sản thừa kế, gồm: Thửa nửa khoảnh ở xứ Sơn Phục, một thửa ở xứ Đồng Hộ, một nửa khoảnh lấy về phía bắc ở xứ Hòn Vuông, một khoảnh đất của tổ tỉ (tức bà cố) tọa lạc ở xứ Hòn Sỏi, một khoảnh của ông nội, tọa lạc ở xứ Bàu Lăng.
Trong đó, di chúc nêu rõ, khoảnh đất ở xứ Hòn Sỏi giao cho 2 người con gái khác là Thị Khứ và Thị Sinh canh tác để làm giỗ ở nhà Thìn Bảo; còn khoảnh đất ở xứ Bàu Lăng giao cho người con gái khác là Thị Định canh tác để làm giỗ ở nhà trưởng Nhiêu, và cúng Chạp ở nhà trưởng Sanh.
Vào năm Tự Đức thứ 11 (năm 1858), cũng ở phường Lý Sơn An Hải, một cụ bà cũng đã lập di chúc phân chia tài sản cho các con. Ngoài chia đất cho 7 người con đang còn sống, bà còn định hẳn hai khoảnh đất cát, tọa lạc ở xứ Gò Bỉ, cho những người con đã mất của bà.
Theo đó, hai người con trai còn sống là Nguyễn Quang Lộc và Nguyễn Quang Chánh sẽ cùng được sử dụng phần đất ấy để canh tác. Song, phần hoa lợi thu được, sẽ được dành cho việc lo giỗ chạp cho những người anh em đã mất.
Trong chúc thư, bà Khánh không quên căn dặn, “các con canh tác trên phần của mình, lo việc giỗ chạp cho cha mẹ ấy là đạo hiếu báo đền đức cù lao. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì cam chịu lỗi lầm”.
Từ việc người xưa lập di chúc chia đất đai cho tất cả các con, kể cả con trai và con gái, có thể thấy được tư duy tiến bộ của người xưa. Thậm chí, người xưa còn chia đất đai cho người đã khuất như một cách khéo léo để vừa đảm bảo một phần đất đai được lưu truyền từ đời này sang đời khác, vừa ràng buộc trách nhiệm thờ cúng cho con cháu đời sau.

Đơn của bà Trần Thị Lượng viết vào năm Thành Thái thứ 2, hiện đang được lưu giữ tại chùa Ông, xã Tư Nghĩa. Ảnh: NGUYỄN ĐĂNG VŨ
Dành đất cho hương hỏa
Cách đây hơn 2 thế kỷ, vào ngày 12 tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 42 (năm 1781), ông Dương Văn Tảo, Dương Quang Miễn, Dương Đức Kế... cùng toàn thể bổn tộc họ Dương và những người họ Phạm, Nguyễn, Tống ở Cù Lao Ré (nay thuộc đặc khu Lý Sơn) đã thống kê và ghi chép lại số đất đai mà tổ tiên họ Dương đã khai phá trên Cù Lao Ré.
Theo đó, bên cạnh đất trồng cỏ, đất phù sa dùng canh tác, người xưa đã phân chia một phần đất ở xứ Sầu Đâu, xứ Bàu Lăng dùng làm đất hương hỏa. Coi trọng việc hương hỏa, thờ cúng, nên việc phân chia, giao đất cũng được người xưa quy định rất rõ ràng: Đất ở xứ Sầu Đâu giao cho trưởng phái trông coi, chăm sóc; đất ở xứ Bàu Lăng thì giao người trong họ tộc luân phiên chia nhau canh tác để có chi phí lo việc giỗ chạp.
Cũng liên quan đến họ Dương, ở Lý Sơn, vào ngày 28 tháng 11 năm Tự Đức thứ 8 (năm 1855), trưởng tộc đã có đơn liên quan đến phần đất dành cho việc hương hỏa. Trong đơn, trưởng tộc đã trình báo rằng, họ tộc đã cho người ngoài tộc thuê phần đất hương hỏa ở xứ Đồng Hộ, Bàu Lăng để lấy tiền lo việc hương hỏa. Song, người thuê lại bán khoảnh đất cho người khác, gây “ảnh hưởng đến công lao của tổ tiên” và “không biết lấy gì lo việc giỗ chạp”.
Đất đai sinh ra hoa lợi, cung cấp nguồn lực tài chính để duy trì việc thờ cúng. Sự suy tính thấu đáo này của người xưa khiến trách nhiệm thờ cúng không trở thành gánh nặng kinh tế cho thế hệ sau, ngược lại, trở thành sợi dây kết nối, thắt chặt thêm tình đoàn kết của con cháu trong họ tộc.
Ngẫm về cách người xưa sẵn sàng hiến tặng đất đai để có thể đời đời chăm lo hương khói cho tổ tiên, mới thấy rằng, đôi khi “tấc đất” chưa hẳn là “tấc vàng”. Sau tất cả, điều đọng lại của đời người chỉ còn là tình thân, là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đã thấm sâu vào máu thịt của những người muôn năm cũ ấy.
Viết đơn xin hiến đất
Tại Chùa Ông, xã Tư Nghĩa, nay vẫn còn lưu lại một đơn được viết vào năm Thành Thái thứ 2 (năm 1890) nói về việc bà Trần Thị Lượng viết đơn lên Quan Bố chánh Quảng Ngãi xin được hiến toàn bộ đất đai, nhà cửa cho xã Thanh Hương cũ.
Bà Lượng nêu lý do trong đơn rằng, bà có ông bà ngoại là Lương Thành Công và Thai Thị Châu, ở xã Thanh Hương cũ. Ông bà có hai người con gái là Lương Thị Đặng và Lương Thị Điều. Bà Đặng không may mất sớm, không có con nối dõi.
Còn Lương Thị Điều, tức là mẹ của bà thì xuất giá, sinh hạ được 5 người con gái. Song, chỉ còn hai người còn sống là bà và chị gái Trần Thị Thận đã bị mù. Vì vậy, lâu nay, việc thờ phụng ông bà ngoại của bà là Lương Thành Công và Thai Thị Châu đều do một mình bà chăm lo.
Không có con nối dõi, bà Lượng lo sợ rằng khi bà tuổi cao sức yếu và mất đi, thì không còn ai chăm lo việc thờ phụng ông bà ngoại. Vì vậy, bà lập đơn xin Quan Bố chánh Quảng Ngãi xét cho bà được giao toàn bộ điền sản cho xã Thanh Hương cũ, gồm: Một thửa ruộng 2 sào 7 thước 5 tấc có trong sổ bạ xứ Ngã Bảy, xã Vạn An; một ngôi nhà tranh 3 gian; một khoảnh đất liền kề với vườn chùa xã Thanh Hương cũ.
Đổi lại, sau khi nhận lãnh, xã phải lo quét dọn, sửa sang mộ phần và phụng thờ, tổ chức lễ kỵ chạp cho ông bà nội ngoại của bà. Đơn này của bà, được Quan Bố chánh Quảng Ngãi lúc ấy phê chuẩn vào ngày Mùng 10 tháng 11 năm 1890.
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/dat-dai-qua-van-ban-chuc-thu-thuo-xua-65083.htm












