Đất hiếm Việt Nam: Hành trình làm chủ công nghệ chế biến sâu
Sự đồng hành của Chính phủ, thông qua các cơ chế chính sách của Bộ KH&CN, được kỳ vọng sẽ tạo đòn bẩy để các doanh nghiệp trong nước tự tin đầu tư vào khâu chế biến sâu, thay vì mãi dừng lại ở việc xuất khẩu thô.
Việt Nam, quốc gia sở hữu trữ lượng đất hiếm đứng thứ hai thế giới theo đánh giá của Cục Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) với khoảng 22 triệu tấn, đang nỗ lực chuyển mình từ việc xuất khẩu quặng thô sang phát triển ngành công nghiệp chế biến sâu có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất nằm ở khả năng làm chủ công nghệ. Trước thực tế này, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã và đang triển khai hàng loạt biện pháp nhằm kết nối tri thức khoa học với thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.
Thực trạng và Nhu cầu Cấp thiết về Kết nối Công nghệ
Các nhà khoa học trong nước đã khẳng định rõ thách thức hiện hữu. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Anh Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), từng chia sẻ tại buổi họp báo kết quả hoạt động của Viện, rằng: "Đến nay, Việt Nam chưa có nhà máy chế biến từ tinh quặng đất hiếm ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, tức là hàm lượng Tổng Oxit đất hiếm (TREO) tối thiểu phải đạt 95%."

Việt Nam chưa làm chủ được công nghệ chế biến đất hiếm - Ảnh: IT
Ông cũng nhấn mạnh rằng dù công nghệ phân chia riêng oxit đất hiếm và làm sạch đến độ sạch cao đã được nghiên cứu từ rất sớm, nhưng phần lớn mới triển khai trong phòng thí nghiệm, chưa có công nghệ nào áp dụng vào thực tế sản xuất. Đây là "khoảng trống" lớn cần được lấp đầy.
Nỗ lực kết nối giữa khoa học và doanh nghiệp
Trước bối cảnh trên, Bộ KH&CN đã tích cực vào cuộc, đóng vai trò là cầu nối quan trọng. Một trong những sự kiện tiêu biểu nhất là Hội thảo khoa học “Đất hiếm Việt Nam: Thực trạng công nghệ khai thác, chế biến và triển vọng” được tổ chức dưới sự phối hợp giữa Bộ KH&CN và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Phát biểu tại Hội thảo, Giáo sư, Viện sĩ Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân chính khiến hoạt động khai thác, chế biến đất hiếm còn hạn chế, đó là "chúng ta chưa có công nghệ khai thác, chế biến đất hiếm", trong khi đây lại là lĩnh vực các nước phát triển giữ độc quyền và hạn chế chuyển giao. Hội thảo được tổ chức chính là cơ hội để kết nối các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác và chế biến đất hiếm, nhằm thúc đẩy hợp tác trong nghiên cứu, tư vấn, chuyển giao và hoàn thiện công nghệ.
Về phía nghiên cứu, các đơn vị như Viện Công nghệ Xạ hiếm (thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) đã kiên trì nghiên cứu, làm chủ được các quy trình công nghệ chế biến sâu ở quy mô phòng thí nghiệm và pilot, sẵn sàng chuyển giao khi có sự đầu tư đúng mức từ doanh nghiệp.
Định hướng chiến lược tương lai
Để hiện thực hóa các mục tiêu đã được Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18.7.2023 về Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050, Bộ KH&CN đã đề ra các giải pháp mang tính chiến lược trong thời gian tới.
Theo đó, Bộ KH&CN sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu xây dựng và triển khai một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy mô lớn. Các nhiệm vụ này sẽ được gắn với các dự án đầu tư của doanh nghiệp khai thác, chế biến sâu đất hiếm. Mục tiêu là tạo ra sản phẩm tinh quặng đất hiếm đạt chuẩn làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp điện tử và chất bán dẫn.
Song song đó, Bộ KH&CN cũng đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất chất bán dẫn, khai thác và chế biến sâu đất hiếm tại Việt Nam. Đây là giải pháp quan trọng để thu hút công nghệ nguồn, giúp Việt Nam vượt qua rào cản kỹ thuật và khẳng định vị thế trên bản đồ công nghiệp đất hiếm toàn cầu. Sự đồng hành của Chính phủ, thông qua các cơ chế chính sách của Bộ KH&CN, được kỳ vọng sẽ tạo đòn bẩy để các doanh nghiệp trong nước tự tin đầu tư vào khâu chế biến sâu, thay vì mãi dừng lại ở việc xuất khẩu thô.












