Dấu ấn thời bao cấp trong ký ức tiến sĩ tài chính
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh sinh ngày 20/6/1957 tại thôn Trường Xuân (Thanh Hóa), trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng.
Là một trong những chuyên gia kinh tế nổi tiếng, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, nguyên giảng viên cao cấp, Học viện Tài chính cũng có những tháng ngày khó khăn, nhọc nhằn.
Đói hơn sinh viên
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh sinh ngày 20/6/1957 tại thôn Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ tinh thần hiếu học, ý chí nỗ lực vươn lên và giành nhiều giải thưởng Văn, Toán ở cấp tỉnh và miền Bắc.
Tốt nghiệp phổ thông tại lớp chuyên Toán, Trường PTTH Lam Sơn, ông thi đỗ vào Trường Đại học Tài chính - Kế toán (nay là Học viện Tài chính). Năm 1975, khi đang là sinh viên năm nhất tại trường, gác lại công việc học tập, ông tham gia đoàn quân của Ủy ban Quân quản Sài Gòn, phụ trách gần 20 người và nhận nhiệm vụ Trưởng ban Đổi tiền (từ tiền của chính quyền Sài Gòn sang tiền của Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam).
Sau đó, ông tiếp tục thực hiện ước mơ dang dở tại Trường Đại học Tài chính - Kế toán. Sau khi tốt nghiệp với tấm bằng loại ưu cùng những thành tích xuất sắc trong học tập, ông được giữ lại trường công tác với vai trò giảng viên.
Ông từng theo học tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Lomonosov (Nga) sau đó bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Tổng hợp Kinh tế Quốc gia Belarus. Sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1996, ông tiếp tục ở lại trau dồi thêm tri thức bằng cách trở thành thực tập sinh cao cấp tại Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga. Năm 1998, ông đã đem những kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được về nước và đảm nhiệm vị trí Trưởng Bộ môn Tài chính Quốc tế, rồi Trưởng Bộ môn Quản trị Tài chính Quốc tế, Học viện Tài chính.
Nhớ về những tháng ngày khó khăn, TS Đinh Trọng Thịnh nhớ lại: “Lúc tôi đang là sinh viên được 15 kg lương thực/tháng nhưng khi làm giảng viên rồi lại bị giảm còn 13 kg. Nếu được lấy toàn gạo thì đã đỡ - mặc dù gạo đôi khi cũ, mốc vón cục - nhiều khi phải quy đổi một phần ra ngô, khoai, sắn hoặc hạt bo bo nhập về từ Liên Xô.
1 kg gạo bằng 4 kg khoai hoặc sắn, nhưng là khoai hoặc sắn tươi. Ăn cơm độn khoai với sắn thời đó thì ai cũng thấy quen. Có cái cảm giác ăn hạt bo bo bung lên, vỏ nó cứng nhưng đói vẫn phải nhai thì không thể nào quên được.
Hàng hóa tiêu dùng rất khan hiếm, muốn mua thì phải có tem, phiếu và phải xếp hàng hoặc bốc thăm. Cả Trường Đại học Tài chính - Kế toán nơi tôi công tác mỗi năm chỉ được phân phối khoảng 10 cái săm, 10 cái lốp xe đạp. Nên để phân phối cho các giảng viên, nhà trường đã tổ chức bốc thăm theo các đơn vị. Đi làm thì xe đạp vá cái săm đến hàng chục miếng, lốp cũng còn phải độn vì thủng.
Thời đó, dù có tiết kiệm được tiền thì cũng không có quần, áo mà mua. Vì mua vải cũng theo tem, phiếu định lượng cho mỗi người 4m mỗi năm. Thậm chí có tem, phiếu cũng còn phải chờ đến lượt. Đến cả cái quần đi dạy cũng vá cả trước, cả sau đến mấy miếng.
Do quần áo toàn là vải bông, rất dễ sờn rách nên cái nào cũng phải tích kê dày cộm ở mông. Cũng may, mẹ tôi làm nghề may, bố tôi phụ trách xí nghiệp cơ khí nên cũng biết tự sửa quần áo, sửa chữa máy khâu để có thêm thu nhập”.
Vừa đi dạy, vừa đi học, kiêm thợ sửa xe đạp
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh kể: “Cuộc sống quá khó khăn, ở nơi thừa gạo như miền Nam hay thừa chè như Thái Nguyên cũng không được đem đi bán. Vì nếu mang đi bán bị quản lý thị trường phát hiện là bị tịch thu và xử phạt. Hàng hóa sản xuất ra chỉ có bán cho Nhà nước để phân phối theo tem phiếu thì được. Đến giờ, một số bạn bè khi kể lại vẫn còn nhớ tôi vừa giảng dạy, vừa học ngoại ngữ để chuẩn bị đi nghiên cứu sinh nhưng đã biết sửa máy khâu, sửa xe đạp… làm đủ nghề để có tiền học và bám trụ với nghề.
Ấn tượng với những thế hệ như tôi thời đó phải kể tới những năm 1983 -1985 cứ tăng lương là lạm phát lại tăng mạnh. Trong thời kỳ đó, lạm phát tăng tới hơn 774% khiến cho đồng lương “cháy” trên tay, không mua nổi thứ gì. Chỉ mời mấy người bạn liên hoan, với cái chân giò và mua ít con trùng trục nấu canh thôi mà cũng đã hết toi cả lương tháng”.
Những năm 1980 đó, kinh tế cực kỳ khó khăn khi Việt Nam vừa phải giúp bạn Campuchia tiễu trừ tàn quân Pol Pot, chống giặc xâm lấn biên giới phía Bắc, vừa phải đương đầu với khó khăn do bao vây, cấm vận của các nước phương Tây. Nói về kinh tế đúng chuyên ngành, hàng loạt ký ức lại ùa về.
“Tôi còn nhớ, khi đó bác Tố Hữu là Phó Thủ tướng phụ trách mảng kinh tế. Là giảng viên trẻ, tôi cũng được cử tham gia vào Chương trình xây dựng 500 huyện thành 500 pháo đài kinh tế. Những “pháo đài” kinh tế này cũng đã góp một phần cho kinh tế nông thôn và nền kinh tế phát triển sau này, dù có một số địa phương ở miền Trung trong phong trào xây dựng nông thôn mới cũng hơi quá.
Trong những năm đầu của thập kỷ 1980, có những địa phương, những doanh nghiệp “xé rào”, thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp, công nghiệp. Cho tới năm 1986, với chủ trương Đổi mới kinh tế của Đảng và phát triển nền kinh tế thị trường thì năng suất lao động đã được thay đổi hẳn.
Từ chỗ thiếu lương thực, phải nhập cả triệu tấn mỗi năm thì chỉ trong 1 - 2 năm, Việt Nam đã tự túc được lương thực trong nước và bước đầu tiến tới xuất khẩu lương thực. Hàng hóa dồi dào nên cũng được lưu thông theo thị trường, bỏ việc “ngăn sông, cấm chợ” và dần dần mới bỏ hẳn chế độ tem, phiếu.
Cho đến nay, Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội và đang thay đổi hàng ngày để trở thành Thủ đô văn minh, hiện đại. Giao thông được đầu tư mạnh mẽ có đủ cả vành đai 1, 2, 3 và đã khởi công vành đai 4, những tòa nhà cao ốc mọc lên san sát.
Có lẽ, nhìn vào những con số này, nhìn vào thực tế Hà Nội hôm nay, các thế hệ trẻ không thể nào tưởng tượng ra được ký ức của kinh tế Hà Nội những năm 1980 của thế kỷ trước”, ông nói.
Dấu ấn nghiên cứu về kinh tế tài chính
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đã tham gia và chủ nhiệm gần 40 đề tài nghiên cứu khoa học từ cấp trường, thành phố cho tới cấp bộ. Các đề tài nghiên cứu của ông hướng đến những vấn đề thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế - tài chính của đất nước, được nghiệm thu và đánh giá với kết quả cao.
Ông cũng đã tham gia viết và là tác giả của 29 cuốn sách giáo trình, tài liệu tham khảo thuộc chuyên ngành kinh tế - tài chính. Trong đó có những cuốn sách chuyên khảo do ông biên soạn và chủ biên như: Các công cụ tài chính và vị thế của Việt Nam trong khu vực đầu tư ASEAN, Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đồng chủ biên cuốn “Doanh nghiệp Việt Nam - Hợp tác và Liên kết trong hội nhập”; giáo trình “Quản trị vay và nợ quốc tế”, cuốn Tái cấu trúc kinh tế Hà Nội theo hướng hiện đại và phát triển bền vững… Đặc biệt trong đó phải kể đến cuốn giáo trình “Tài chính Quốc tế” do ông biên soạn được chọn là cuốn sách tiêu biểu phát trong chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách”.
Ông còn là tác giả cuốn “Giáo trình Tài chính Quốc tế” dùng cho giảng dạy đại học ở CHDCND Lào (2005), tham gia viết cuốn “Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chủ chốt của Bộ Tài chính Lào” (2011), tham gia viết “Từ điển thuật ngữ Tài chính Việt - Lào” (2011), viết các tài liệu dùng cho các lớp bồi dưỡng và trực tiếp giảng dạy đại học, cao học tại CHDCND Lào, dạy các lớp bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, các lớp bồi dưỡng cán bộ phiên dịch của Bộ Tài chính Lào…
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh có đến 5 - 6 đầu sách chuyên khảo và tham khảo góp mặt trong các thư viện của nhiều trường đại học nổi tiếng như Yale, Cornell… của Mỹ và các trường kinh tế các nước Anh, Úc… Ông còn tham gia viết gần 100 bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí kinh tế có uy tín, các hội thảo trong nước và quốc tế.
Tiêu biểu như các bài viết “Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước trong giải quyết việc làm” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế; “Vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” đăng trên Tạp chí Cộng sản; “Chuẩn bị gia nhập WTO - Chính sách Thuế cần đi trước đón đầu”…
Trên cương vị là một chuyên gia kinh tế đầu ngành, ông thường xuyên tham gia trao đổi, trả lời phỏng vấn của các chương trình truyền hình, báo, đài phát thanh và các tạp chí về các vấn đề kinh tế nóng của đất nước; tham gia tuyên truyền và phản biện các chính sách, chế độ, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và các cơ quan hoạch định chính sách.
Với hiểu biết và kiến thức sâu rộng cả về lý thuyết và thực tiễn các vấn đề kinh tế trong nước và quốc tế, với sự sắc sảo, tầm nhìn nhạy bén, toàn diện, đa chiều cùng những kiến nghị, giải pháp thực tế, các bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của ông đã thu hút sự quan tâm của xã hội.
Tính đến nay, ông đã có trên 1.500 bài báo, bài trả lời phỏng vấn trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước, cùng hàng nghìn video trả lời, tư vấn trên các chương trình truyền hình, các diễn đàn kinh tế… Có thể thấy sức làm việc và nghiên cứu của ông ít người có thể sánh kịp.
Trong công tác đào tạo, hàng năm PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đều hướng dẫn bảo vệ thành công nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ; đồng thời hướng dẫn nhiều nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học đoạt giải cao trong các cuộc thi sinh viên nghiên cứu khoa học của Học viện Tài chính, cũng như của Bộ GD&ĐT, quỹ VIFOTEC. Ngoài ra, ông cũng tham gia giảng dạy tại nhiều trường đại học, học viện trong và ngoài nước.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các bộ, ban, ngành trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Lao động hạng Ba năm 2012, Huân chương Lao động hạng Ba của Nhà nước CHDCND Lào năm 2013, danh hiệu NGƯT năm 2010, cùng nhiều bằng khen và kỷ niệm chương của Bộ Tài chính, Bộ GD&ĐT…