Đầu tư xứng tầm cho nghề nuôi biển

Với lợi thế bờ biển dài trên 200 km, ngư trường gần 63.300 km2, cùng hơn 140 hòn đảo và nguồn lợi thủy sản phong phú, tỉnh An Giang có điều kiện để phát triển kinh tế biển, nhất là nghề nuôi biển.

Nuôi cá lồng bè trên vùng biển An Thới. Ảnh: Lê Huy Hải - TTXVN

Nuôi cá lồng bè trên vùng biển An Thới. Ảnh: Lê Huy Hải - TTXVN

Tỉnh đã và đang tập trung triển khai nhiều giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi biển, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế biển quốc gia trong thời gian tới.

Là một trong những hộ gắn bó lâu năm với nghề nuôi cá lồng bè ở Hòn Tre, đặc khu Kiên Hải, bà Tô Diễm Thúy cho biết, hơn 20 năm qua gia đình duy trì nuôi 20 lồng cá mỗi đợt, với các loại cá như: cá bớp, mú trân châu, cam, hồng mỹ, chim vây vàng... cho hiệu quả kinh tế khá cao, lợi nhuận từ 500-700 triệu đồng/năm. Từ năm 2022, gia đình bà Thúy được hỗ trợ nuôi thử nghiệm bằng lồng nhựa HDPE cho thấy hiệu quả tốt hơn so với lồng gỗ truyền thống.

Theo bà Thúy, lồng HDPE có thể nuôi cá ở vùng biển xa bờ, chất lượng nguồn nước tốt, ít xảy ra dịch bệnh, đạt năng suất và cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, đến nay gia đình bà cũng như đa số ngư dân Hòn Tre vẫn nuôi cá bằng lồng bè gỗ. Bởi, nguồn vốn đầu tư lồng HDPE lên đến hàng tỷ đồng, ngoài khả năng của ngư dân. Không chỉ vậy, đến nay vẫn chưa có quyết định khu vực nuôi biển theo quy hoạch nên người dân vẫn nuôi tạm thời ở ven bãi biển truyền thống, phải di dời lồng bè nuôi mỗi năm 2 đợt rất bất tiện.

"Chúng tôi hi vọng có chính sách vay vốn ưu đãi, trả dần để đầu tư lồng nuôi hiện đại bằng nhựa HDPE. Đồng thời, cần sớm ban hành quyết định khu vực nuôi và giao khoán mặt nước biển để ngư dân yên tâm đầu tư nuôi cá lồng bè", bà Thúy chia sẻ.

Ông Nguyễn Nhật Trường, ngụ Hòn Sơn, đặc khu Kiên Hải cho biết, gia đình bắt đầu nuôi cá lồng bè từ năm 2018 đến nay. So với nghề đánh bắt thủy sản, mô hình nuôi cá lồng bè, cụ thể là cá bớp, cá mú trân châu, cá quỵt mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và mang tính bền vững. Bởi, người nuôi dễ dàng thu mua cá tạp làm cá mồi cho cá ăn, ít tốn chi phí thức ăn nên người nuôi có lãi khoảng 30% so với tổng chi phí đầu tư.

Tuy nhiên, theo ông Trường, nghề nuôi cá lồng bè gần đây cũng đối mặt với khó khăn do quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, chủ yếu là hộ gia đình; khả năng ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường nước quanh khu vực nuôi vẫn còn xảy ra trong các vụ nuôi làm cho cá bị hao hụt khoảng 30%.

"Hiện tại, ngư dân mua cá giống của thương lái nhưng không rõ nguồn gốc, tỷ lệ cá nuôi hao hụt tương đối cao; giá cá thương phẩm phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái và thường bị ép giá nên lợi nhuận giảm. Tôi mong thời gian tới nhà nước quan tâm có sự liên kết cung ứng con giống gắn với bao tiêu đầu ra, kết nối mở rộng quy mô nuôi cá lồng bè tại Hòn Sơn, đảm bảo cho doanh nghiệp thu mua ổn định cá thương phẩm", ông Nguyễn Nhật Trường nói.

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, năm 2025 tỉnh đặt mục tiêu nuôi cá lồng bè trên biển với 4.550 lồng, sản lượng 5.150 tấn. Đến nay, tỉnh đã phát triển gần 4.780 lồng, đạt 105% kế hoạch, tập trung tại các khu vực ven biển, ven đảo thuộc các xã/phường/đặc khu như: xã Sơn Hải, xã Hòn Nghệ, xã Tiên Hải, đặc khu Kiên Hải và đặc khu Phú Quốc. Sản lượng cá thu hoạch hơn 3.400 tấn, đạt 65,90% kế hoạch, với các đối tượng có giá trị kinh tế như: cá mú, cá bớp, cá chim vây vàng...

Tỉnh đã triển khai 18 mô hình chuyển đổi từ nuôi lồng truyền thống (chất liệu gỗ) sang lồng nhựa HDPE với 88 lồng HDPE. Các mô hình bước đầu đã mang lại kết quả tích cực về kỹ thuật, tài chính, hạn chế được rủi ro cho người nuôi; cấp mã số nhận diện cho 357 cơ sở nuôi cá lồng bè trên biển và 29 giấy phép nuôi biển. Qua đó, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp hoàn thiện các thủ tục đầu tư nuôi biển và phục vụ tốt cho công tác truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu.

Tỉnh đã phê duyệt bổ sung danh mục 14 dự án kêu gọi đầu tư nuôi biển công nghiệp, ứng dụng công nghệ mới; Ủy ban nhân dân tỉnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 5 doanh nghiệp với tổng diện tích gần 2.100; vốn đầu tư 1.110 tỷ đồng. Cùng với đó, tỉnh đã đề xuất thêm 8 dự án nuôi biển đưa vào danh mục kêu gọi đầu tư với tổng diện tích khoảng 2.480 ha và hiện đang tổng hợp xem xét đề xuất thêm nhiều dự án đăng ký nuôi biển ven bờ, ven đảo trong tỉnh.

Nuôi cá lồng bè trên vùng biển An Thới. Ảnh: Lê Huy Hải - TTXVN

Nuôi cá lồng bè trên vùng biển An Thới. Ảnh: Lê Huy Hải - TTXVN

Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang cho biết, nghề nuôi cá lồng bè còn khó khăn như: lồng bè nuôi cá biển chủ yếu quy mô nhỏ theo kiểu truyền thống, bè nuôi dễ bị ảnh hưởng bởi sóng lớn, áp thấp nhiệt đới hoặc bão. Thức ăn phục vụ nuôi cá biển chủ yếu là cá tạp từ các tàu khai thác tại địa phương, số lượng lồng bè sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi cá rất ít. Thiếu sự chủ động về nguồn cá giống, chưa kiểm soát được chất lượng. Tiêu thụ sản phẩm nuôi biển chủ yếu bán qua thương lái thu mua tiêu thụ nội địa. Chuỗi liên kết sản xuất trong nuôi biển còn rất hạn chế, người dân chủ yếu nhỏ lẻ, tự phát, bị động về nguồn giống và còn nhiều rủi ro do thị trường tiêu thụ không ổn định.

Để phát huy lợi thế về nuôi biển, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án phát triển nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh đến năm 2030, đề xuất phạm vi, tiêu chí khu nuôi lồng bè, phân bố các vùng nuôi biển hải đảo và vùng ven biển của tỉnh; đề xuất các doanh mục đề tài, dự án ưu tiên thời kỳ 2021-2030 trên địa bàn tỉnh. Mục tiêu đến năm 2030 số lồng nuôi là 14.000 lồng, sản lượng 105.720 tấn (lồng nuôi công nghệ cao là 6.600 lồng). Phát triển nuôi biển trở thành lĩnh vực sản xuất quy mô công nghiệp, tạo khối lượng sản phẩm lớn phục vụ xuất khẩu, du lịch và tiêu thụ nội địa. Chuyển đổi các mô hình nuôi biển quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu sang quy mô lớn với công nghệ hiện đại và bền vững.

Ông Toàn cho biết, thời gian tới tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các quy định liên quan đến nuôi biển ; tiếp tục thu hút, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư nuôi biển và hậu cần phục vụ nuôi biển (sản xuất con giống, thức ăn công nghiệp, chế biến xuất khẩu...); kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục đầu tư để đưa dự án vào triển khai chính thức, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Đề án nuôi biển đề ra.

Khuyến khích, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đầu tư có quy mô, ứng dụng công nghệ nuôi mới, lồng nuôi có sức chống chịu tốt và nuôi được xa bờ; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nuôi biển; xây dựng, áp dụng các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất theo hình thức liên kết; hỗ trợ chuyển đổi từ nuôi biển gần bờ hoặc khai thác thủy sản xa bờ kém hiệu quả sang nuôi biển xa bờ.

"Cùng với đó, tỉnh tăng cường kiểm dịch giống thủy sản nuôi biển; giám sát chủ động dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên thủy sản nuôi; kịp thời phát hiện, hướng dẫn người dân biện pháp phòng trị, xử lý dịch bệnh theo quy định; tranh thủ nguồn vốn của Trung ương phân bổ cho tỉnh để đầu tư cơ sở hệ thống hạ tầng thiết yếu, tạo tiền đề để thu hút đầu tư mạnh mẽ vào phát triển nuôi biển công nghiệp của tỉnh", ông Lê Hữu Toàn nhấn mạnh.

Văn Sĩ/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/dau-tu-xung-tam-cho-nghe-nuoi-bien/389121.html