ĐBQH: Nên cụ thể hóa phạm vi bí mật Nhà nước
Chiều 7/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước (sửa đổi).
Đóng góp ý kiến thuộc phạm vi bí mật Nhà nước
Tham gia phát biểu, đại biểu Nguyễn Phương Thủy (đoàn Hà Nội) góp ý thêm một số ý kiến liên quan đến phân loại thông tin thuộc phạm vi bí mật Nhà nước và cơ chế giải mật.
Bà Thủy nói rằng, có một con số mà không cơ quan thống kê nào có thể xác định chính xác đó là tổng số văn bản, tài liệu đang bị đóng dấu "mật" hiện nay. Bởi số lượng này quá lớn và phân tán, trong đó không ít tài liệu bị "mật hóa" vượt mức cần thiết, gây thiệt hại cho quản trị công, làm giảm tính minh bạch quốc gia và hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, đoàn Hà Nội (Ảnh: Media Quốc hội).
Bà cho rằng, hiện tượng này gây ra gánh nặng lớn cho quản lý Nhà nước, vì người lưu trữ, in ấn, kiểm tra, tiêu hủy tài liệu phải tuân thủ hàng loạt quy định nghiêm ngặt, rất tốn kém thời gian và nguồn lực.
Lý giải về hiện tượng này, bà Thủy cho rằng có 3 nguyên nhân chính. Một là quy định pháp luật còn rộng và thiếu rõ ràng. Theo đó, Điều 7 của dự thảo Luật quy định phạm vi bí mật Nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng, chưa công khai, nếu bị lộ có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
"Đây là tiêu chí đúng về nguyên tắc, nhưng vì không có hướng dẫn định lượng, không có tiêu chí cụ thể, nên nhiều cơ quan chọn phương án đóng mật cho chắc", bà Thủy nói.
Nguyên nhân thứ 2 là do thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng. Luật hiện hành chưa quy định hậu quả pháp lý đối với hành vi cố ý đóng dấu mật sai quy định, hay sử dụng "mật" để che giấu thông tin, né tránh giải trình.
Ba là do khoảng trống pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ. Theo bà Thủy, nhiều cơ quan đang sử dụng hành chính "mềm" là các tài liệu nội bộ nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh. Điều này khiến cán bộ công chức e ngại cung cấp thông tin, không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số, không dám ứng dụng AI trong phân tích văn bản, sợ rò rỉ thông tin.
"Sự thiếu rõ ràng này vô tình trở thành rào cản của chuyển đổi số và cải cách hành chính", nữ đại biểu nói.
"Mật hóa" thì dễ, "giải mật" lại khó
Cũng theo bà Thủy, bất cập không chỉ nằm ở khâu "mật hóa", mà còn ở khâu giải mật. Theo Điều 10 của dự thảo Luật, việc xác định tài liệu là bí mật Nhà nước do người đứng đầu cơ quan quyết định, đây là thủ tục đơn giản, trách nhiệm rõ. Nhưng khi giải mật, đặc biệt với các trường hợp tại Điểm b Khoản 2 Điều 22, lại phải thành lập hội đồng giải mật, họp, lập biên bản, lưu hồ sơ.
"Điều này tạo ra nghịch lý, "mật hóa" thì dễ, "giải mật" lại khó, dẫn đến tình trạng đóng mật rồi để đó, không ai muốn đứng ra giải mật dù không còn lý do giữ bí mật", bà Thủy nói.
Theo bà Thủy, hệ quả khiến nhiều tài liệu lẽ ra nên công khai để phục vụ minh bạch và kiểm soát quyền lực lại bị "treo" trong tình trạng mật suốt nhiều năm.
Từ đó, bà Thủy cho rằng nên cụ thể hóa phạm vi bí mật Nhà nước (Điều 7). Rà soát danh mục bí mật thật chặt chẽ, chỉ giới hạn trong trường hợp thực sự cần thiết, có tiêu chí rõ ràng, tránh suy diễn, tránh "mật hóa" tràn lan. Có thể luật hóa tiêu chí hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, đoàn Lâm Đồng (Ảnh: Media Quốc hội).
Cũng góp ý vào dự thảo Luật, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (đoàn Lâm Đồng) cho rằng, phạm vi bí mật Nhà nước được xây dựng rất toàn diện, bao quát 13 lĩnh vực từ chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế đến khoa học công nghệ và y tế.
Tuy nhiên, Điều 7 liệt kê phạm vi rộng, dễ dẫn đến việc lạm dụng đóng dấu "mật". Do đó, đại biểu đề nghị cần bổ sung một nguyên tắc định hướng ngay trong lời dẫn hoặc trong một khoản mới.
Ví dụ, khoản 14 "Phạm vi bí mật Nhà nước phải được thường xuyên rà soát, điều chỉnh theo hướng thu hẹp tối đa để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động công khai thông tin và chuyển đổi số".
Theo bà Tú Anh, nguyên tắc này sẽ tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan chủ động và nghiêm túc thực hiện việc giải mật những thông tin đã cũ hoặc không còn nguy hại, thúc đẩy tính minh bạch.











