Để phát triển kinh tế tư nhân, cần có chính sách hỗ trợ cả hai đầu cung - cầu
Để phát triển kinh tế tư nhân, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cả hai đầu cung - cầu. Sự kết nối nhuần nhuyễn giữa cung và cầu sẽ giúp nền kinh tế có sức bật tốt hơn.
Trao đổi với phóng viên, TS. Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia chính sách công nhìn nhận, chúng ta đều mong đợi và mong chờ vào sự vững mạnh và phát triển của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới.
Với sự quyết tâm cũng như việc nhìn nhận lại vai trò của kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế, ông cũng kỳ vọng Đảng và Chính phủ sẽ có những chính sách đột phá.
Thưa ông, cải cách thể chế là một trong những nhiệm vụ tọng tâm để phát triển kinh tế tư nhân. Vậy, để kiến tạo nền hành chính “phục vụ doanh nghiệp - phụng sự đất nước”, đâu là những vấn đề cần lưu ý?
Bên cạnh những giải pháp rất trúng, đúng để tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, giảm các điều kiện kinh doanh và phá bỏ những rào cản không thuận lợi, chúng ta phải rà soát và đánh giá không chỉ ở giai đoạn đầu.
Ví dụ như thuế. Vướng mắc không chỉ xuất hiện trong quá trình hoàn thuế, mà trong trường hợp doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc kết thúc hoạt động, còn gặp khó khăn về nợ thuế hay đóng mã số thuế.
Tôi mong đợi các chính sách ổn định, minh bạch và dễ vận dụng, dễ hiểu. Bởi trong rất nhiều trường hợp, khi tiếp xúc với doanh nghiệp, người ta cho rằng hệ thống pháp luật còn chồng chéo và nhiều tầng nấc. Tính minh bạch, tính dễ hiểu và dễ thực thi cũng rất khó. Chúng ta phải trông chờ vào những hướng dẫn cụ thể ở cấp trên thì các văn bản luật mới đi vào cuộc sống.
Vô hình trung, việc tạo ra khoảng cách thông tin giữa người xây dựng chính sách, người thực thi chính sách và người dân, doanh nghiệp đã tạo ra một chi phí không cần thiết mà trong kinh tế học chúng tôi gọi là chi phí giao dịch.
Chính khoảng cách như vậy dẫn đến những hành vi lợi dụng, trục lợi hoặc chủ nghĩa thân hữu trong kinh tế. Tức là, nếu anh có mối quan hệ, có thông tin, và có được mối liên kết với cơ quan chính quyền, anh sẽ nhận được nhiều lợi thế hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó là một trong những yếu tố tạo ra bất bình đẳng trong môi trường kinh tế thị trường của chúng ta.

TS Nguyễn Quốc Việt. Ảnh: Trọng Tín
Một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi một hệ thống thực thi hợp đồng minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, giúp doanh nghiệp yên tâm trong các giao dịch thương mại và đầu tư. Theo ông, Nhà nước cần làm gì để giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro?
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã nói rất rõ rằng, phải quan tâm đến rủi ro của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bởi, khi dấn thân vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, họ phải chấp nhận rất nhiều rủi ro trong hoạt động sản xuất của mình.
Những rủi ro này có thể đến từ việc do thiếu hiểu biết, do hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn luôn có những sáng tạo, có những đổi mới và có những điều không thể lường trước được. Vậy làm sao để khắc phục những rủi ro hoặc hạn chế những rủi ro, kể cả khi doanh nghiệp bước đi những bước sai lầm có thể khắc phục và quay trở lại với thị trường mới là điều đáng quý.
Hệ thống tư pháp cũng cần có những cải cách quyết liệt. Khi tiến hành các cải cách về môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, hệ thống hành chính và thủ tục hành chính, cũng như hỗ trợ kinh doanh từ các cơ quan Chính phủ đã làm rất tốt. Tuy nhiên, sự vào cuộc của các cơ quan tư pháp để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động chưa thực sự thấy nhiều cải thiện về tính trách nhiệm và hiệu quả.
Rất nhiều doanh nghiệp khi gặp phải những tranh chấp hợp đồng, họ có những vấn đề chiếm dụng vốn, nợ đọng hay lừa đảo… thì thường kéo dài rất lâu. Đến khi có phán quyết của tòa án hay trọng tài thì công tác thực thi cũng là bước trần ai mà các doanh nghiệp phải trải qua. Nếu cải cách được, đây cũng là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp giảm đi chi phí giao dịch.
Ngoài ra, việc hỗ trợ doanh nghiệp về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm là rất quan trọng để tiết giảm chi phí. Hiện chi phí kinh doanh của Việt Nam, từ hạ tầng đến logistics và các chi phí khác, vẫn còn khá cao so với các quốc gia trong khu vực.
Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến trong việc kết nối hạ tầng, nhưng việc giảm các chi phí khác sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện lợi nhuận biên, tăng năng suất kinh doanh, cũng như năng suất lao động.
Chúng ta nói nhiều về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, tức là nói về phía cung. Nhưng liệu chúng ta cũng cần quan tâm đến các chính sách hỗ trợ phía cầu, là những đối tượng sử dụng trực tiếp các sản phẩm của doanh nghiệp Việt?
Tôi cho rằng, chính sách về trọng cung, tức là hỗ trợ cho doanh nghiệp và các ngành mũi nhọn là cần thiết để chúng ta phát triển. Tuy nhiên, đối với một thị trường đầy đủ, cung phải đi đôi với cầu và cần có sự kết nối nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố này.
Chính sách hỗ trợ về cung, tức là hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã có nhưng vẫn còn manh mún và tản mạn. Nhưng nó còn manh mún, tản mạn hơn khi chúng ta nói đến sự kết nối giữa cung và cầu. Chúng ta có những chính sách hỗ trợ kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người Việt Nam sử dụng hàng Việt Nam hoặc hỗ trợ bình ổn giá trong những thời điểm nhất định là rất quan trọng.
Rõ ràng, làm sao chúng ta cần kết nối giữa sản xuất có trách nhiệm với tiêu dùng, đối với những sản phẩm theo định hướng của Nhà nước. Làm sao chúng ta kích hoạt các lĩnh vực của nền kinh tế, phục vụ không chỉ cho xuất khẩu mà còn cho một trăm triệu dân, những người đang có nhu cầu và khát khao trong việc tiêu dùng các sản phẩm chất lượng “Made in Vietnam”.
Khi nguồn lực của Nhà nước có giới hạn, các chương trình hỗ trợ cả đầu cung lẫn đầu cầu cần phải được tập trung, trọng tâm và đủ lực để tạo ra sức bật cho nền kinh tế. Khi có sức bật, nó sẽ lan tỏa sang các ngành và lĩnh vực khác.
Vì vậy, tôi kỳ vọng rằng, sự kết nối nhuần nhuyễn giữa cung và cầu sẽ giúp nền kinh tế chúng ta có một sức bật tốt hơn. Qua đó, các thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam sẽ lớn mạnh hơn.
Mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân trong các dự án quan trọng quốc gia, cùng tham gia với Nhà nước trong một số ngành công nghiệp chiến lược cũng là một giải pháp đang được quan tâm. Ông đánh giá thế nào về cơ chế này?
Chủ trương này không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh chung thông qua việc định hướng các ngành hàng và ngành công nghiệp mũi nhọn, mà còn phát triển những cơ sở hạ tầng trọng điểm của đất nước. Khi chúng ta song song với quá trình nâng cấp cơ sở hạ tầng, chúng ta cũng nâng cao đội ngũ doanh nhân bản địa của Việt Nam.
Việc này sẽ giúp tạo ra một hệ sinh thái rất tốt. Bởi nếu các doanh nghiệp này dẫn dắt và thực hiện những chương trình hoặc đơn đặt hàng của Chính phủ, thì không chỉ một doanh nghiệp phát triển mà sẽ là cả một hệ sinh thái đi theo và phát triển theo.
Như vậy, chúng ta sẽ có được một sự phát triển mạnh mẽ hơn của các doanh nghiệp tư nhân.
Vậy, giải pháp để các doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn của đất nước là gì, thưa ông?
Chúng ta cần hoạch định các chương trình công nghệ hoặc các ngành công nghiệp trọng điểm. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nói rằng, các cơ quan nhà nước phải nhanh chóng sớm có được những chiến lược công nghệ mũi nhọn. Khi hoạch định một cách rõ ràng sẽ cho ra được một bản quy hoạch, đi kèm với đó là những kế hoạch về việc bố trí các nguồn lực, trong đó có nguồn lực đầu tư của Nhà nước
Tôi cho rằng, quy hoạch đó phải thay đổi và sẽ có những đột phá hơn so với các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành đã có hiện nay. Nó phải kế thừa nhưng cũng cần có sự đột phá hơn để đảm bảo rằng các chương trình, các đề án về các ngành công nghiệp trọng điểm hay những công trình trọng điểm thực sự tạo nên sức bật, tạo ra một thế mới trong năng lực cạnh tranh chung của nền kinh tế Việt Nam.
Điều này sẽ giúp chúng ta chọn lựa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, tham gia tính toán được khả năng tham gia và hiệu quả đầu tư của họ đến đâu.
Trên cơ sở có được hoạch định chiến lược, chúng ta cũng cần có sự minh bạch, các cơ chế lựa chọn và tiêu chí đánh giá để doanh nghiệp tham gia vào quá trình đặt hàng của Chính phủ và Đảng, chứ không phải để lại mù mờ hay cảm tính. Mỗi một tiêu chí như vậy sẽ giúp chúng ta có được những nhóm doanh nghiệp cụ thể tham gia vào quá trình đó.
Tất nhiên, để làm được điều đó chúng ta sẽ tiếp tục quay trở lại với cơ chế. Chúng tôi cũng đã khuyến nghị từ trước đến nay rằng, ngay cả những dự án thuần đầu tư công, cần phải đưa các quản trị tư nhân vào trong việc đánh giá rủi ro dự án và thẩm định giá trị. Cần có sự cởi mở hơn trong việc cải cách các thủ tục, quy trình và điều kiện để khu vực tư nhân có thể thực sự yên tâm tham gia vào các dự án và chương trình trọng điểm của nhà nước.