Đề xuất 6 nhóm chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDDT) đang lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Nhiều chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Nhiều chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Theo Bộ GDDT, thời gian qua, mặc dù ngành Giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng Việt Nam vẫn đang đối mặt với những "điểm nghẽn" mang tính hệ thống, cản trở sự phát triển đột phá, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh quốc gia.

Một số bất cập, hạn chế

Bộ GDDT cho biết, dù Luật Giáo dục đại học trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, nhưng các luật chuyên ngành khác lại tạo ra những rào cản gần như không thể vượt qua. Cơ chế quản lý nhà nước còn phân mảnh, nhiều đầu mối, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất. Ngành Giáo dục chịu trách nhiệm nặng nề về chất lượng nhưng lại không được giao đủ quyền hạn tương xứng trong việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực về đội ngũ và kinh phí.

Tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ xảy ra nhiều năm qua ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai chương trình giáo dục. Theo thống kê, tính đến tháng 5/2025, cả nước còn thiếu 102.097 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông trong biên chế so với định mức, và các báo cáo gần đây cho thấy con số này có thể lên tới hơn 120.000 người. Tình trạng này gây quá tải cho đội ngũ hiện có, làm giảm chất lượng dạy và học, đặc biệt thiếu trầm trọng ở bậc mầm non và các môn học mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Trong giai đoạn 2013-2024, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục chưa năm nào đạt được mục tiêu tối thiểu 20% tổng chi NSNN theo Nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Đầu tư cho giáo dục đại học suy giảm, tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục đại học đã giảm từ 9,3% tổng chi cho giáo dục năm 2013 xuống chỉ còn 3,4% vào năm 2024.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu về nhân lực chất lượng cao, quy định hiện hành của Việt Nam về thủ tục thị thực và giấy phép lao động cho chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài còn phức tạp, rườm rà tạo ra rào cản hành chính không cần thiết.

Để tiếp tục có căn cứ chính trị và pháp lý đột phá, quan trọng, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số ngày càng sâu rộng như hiện nay; đồng thời, đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị, việc xây dựng trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo là cần thiết.

Mục đích xây dựng Nghị quyết nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển nền giáo dục nước nhà...

Đồng thời, có giải pháp đột phá nâng cao kỹ năng nghề và phân luồng đào tạo để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho thị trường lao động trong nước và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; hiện đại hóa giáo dục đại học; đẩy mạnh tự chủ toàn diện; rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống các trường đại học bảo đảm thực sự hiệu quả. Nâng cao chất lượng, năng lực và tính sẵn sàng của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, chủ động chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và phát triển toàn diện người học.

6 nhóm chính sách

Trên cơ sở rà soát các vướng mắc, khó khăn, bất cập của hoạt động giáo dục và đào tạo hiện nay, dự thảo Nghị quyết dự kiến sẽ tập trung giải quyết các vấn đề mang tính đột phá, chiến lược để thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị và để phát triển giáo dục và đào tạo.

Thứ nhất, nhóm chính sách về tổ chức, nhân lực và quản trị (Điều 3) được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề nhân lực ngành giáo dục, bao gồm tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, chế độ đãi ngộ bất cập và các rào cản hành chính trong việc tuyển dụng, sử dụng nhân tài, chuyên gia.

Cơ quan quản lý trực tiếp bổ nhiệm nhân sự người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập phù hợp với quy định của Đảng và Pháp luật có liên quan (trừ các Đại học Quốc gia); được phép quy định số lượng cấp phó của người đứng đầu khác với cơ cấu nhân sự trong giai đoạn chuyển tiếp bãi bỏ hội đồng trường của cơ sở giáo dục đại học công lập.

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo có thẩm quyền tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, thuyên chuyển, biệt phái nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập trên địa bàn cấp tỉnh.

Về phụ cấp ưu đãi đặc thù (Điều 3.5.a): Nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên mức tối thiểu 70% đối với giáo viên mầm non, phổ thông, trung học nghề; 30% đối với nhân viên trường học; 100% đối với nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các cơ sở giáo dục cho người khuyết tật, trường chuyên biệt. Chính sách cụ thể hóa trực tiếp yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, là giải pháp chiến lược, cấp bách để ngăn chặn tình trạng giáo viên rời bỏ ngành, tạo sức hút để tuyển dụng mới, từng bước giải quyết tình trạng thiếu hụt giáo viên hiện nay.

Cho phép các địa phương được áp dụng chính sách đãi ngộ linh hoạt, có thể không phụ thuộc vào hệ thống thang bảng lương viên chức chung, tạo điều kiện để cạnh tranh bình đẳng trên thị trường lao động toàn cầu.

Cho phép các chuyên gia, nhà khoa học từ các cơ sở nghiên cứu, cơ sở khám chữa bệnh, doanh nghiệp có thể kiêm nhiệm giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục nhằm tối ưu hóa nguồn nhân lực trí thức chất lượng cao của xã hội, không tăng biên chế, đồng thời tăng cường liên kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, nhóm chính sách về chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục (Điều 4 dự thảo Nghị quyết)được xây dựng nhằm tháo gỡ thủ tục hành chính trong thẩm định, phê duyệt và thí điểm chương trình giáo dục mới, tạo không gian và động lực cho sự đổi mới, sáng tạo từ cấp cơ sở, đáp ứng nhanh với sự thay đổi của thực tiễn. Trong đó:

Về trách nhiệm của Chính phủ (Điều 4.1): Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục: Quyết định các chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước; Quyết định cải cách nội dung chương trình của từng cấp học; quyết định việc áp dụng đại trà chính sách mới trong giáo dục đã được thí điểm thành công, khi việc áp dụng đó ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trên phạm vi cả nước; Quy định cơ chế khuyến khích và chính thức hóa mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp; cơ chế đồng tài trợ, đồng phát triển chương trình và công nhận kết quả học tập, kỹ năng do doanh nghiệp tổ chức đào tạo, phù hợp với pháp luật.

Về trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Điều 4.2): Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục; chỉ đạo đổi mới chương trình giáo dục mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của trẻ em ngay từ giai đoạn đầu; cho phép thí điểm triển khai chương trình giáo dục đổi mới (tích hợp, STEM/STEAM, song ngữ, quốc tế) và thành lập Hội đồng kỹ năng nghề ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên; việc thẩm định, phê duyệt chương trình và quy định cơ chế hoạt động của Hội đồng kỹ năng nghề do Bộ trưởng quy định; thực hiện cơ chế đặc thù để tiếp nhận, chuyển giao, đặt hàng chương trình đào tạo nghề chất lượng cao từ các quốc gia tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ lõi, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, tự động hóa, cơ khí chính xác; lựa chọn cơ sở trọng điểm để tổ chức thí điểm, tiến tới nhân rộng...

Thứ ba, nhóm chính sách về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục (Điều 5 dự thảo Nghị quyết) nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và xu thế phát triển tất yếu của giáo dục thế giới, khắc phục tình trạng hạ tầng số và các nền tảng ứng dụng trong ngành còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa phát huy hiệu quả. Trong đó:

Thực hiện thí điểm mô hình hợp tác giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp để xây dựng Nền tảng giáo dục quốc gia thông minh, gồm nền tảng quản trị cơ sở giáo dục và nền tảng dạy học ứng dụng trí tuệ nhân tạo có kiểm soát, bảo đảm mỗi học sinh có một gia sư ảo, mỗi giáo viên có một trợ lý ảo, nhằm cá nhân hóa việc học tập, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá phù hợp với ngôn ngữ, văn hóa và pháp luật Việt Nam.

Phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia, bảo đảm kết nối, liên thông với hệ thống thông tin thị trường lao động, việc làm và tích hợp dữ liệu về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của các cơ sở giáo dục, phục vụ đánh giá, dự báo cung – cầu nhân lực, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và chất lượng giáo dục, đào tạo.

Thí điểm sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thu hút chuyên gia, nhà khoa học có trình độ cao ở nước ngoài tham gia nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược tại các cơ sở giáo dục đại học...

Thứ tư, nhóm chính sách về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo (Điều 6 dự thảo Nghị quyết) Phá bỏ các rào cản hành chính, tạo ra một môi trường thực sự mở và cạnh tranh để thu hút nhân tài toàn cầu, nâng cao vị thế và sức hấp dẫn của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó:

Chính sách đột phá, chuyển đổi cách tiếp cận từ rào cản hành chính sang lợi thế cạnh tranh. Chính sách thí điểm miễn thị thực và giấy phép lao động trong 05 năm cho nhóm đối tượng chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài, hướng tới mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 71-NQ/TW là tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.

Các đại học và cơ sở giáo dục đại học trọng điểm được phép xác nhận trường hợp chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài có trình độ tiến sĩ được mời làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật tại cơ sở mình không thuộc diện phải cấp giấy phép lao động theo tiêu chí do do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Việc xác nhận của cơ sở giáo dục đại học thay thế thủ tục xin xác nhận tại cơ quan có thẩm quyền ở địa phương. Cơ sở giáo dục đại học chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của văn bằng, chứng chỉ và điều kiện làm việc của chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế trong các ngành, lĩnh vực đặc thù theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; thực hiện thông báo theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành...

Thứ năm, nhóm chính sách về về Quỹ học bổng Quốc gia (Điều 7) nhằm tạo ra một cơ chế tài chính linh hoạt, bổ sung ngân sách nhà nước, để tài trợ cho các ý tưởng, dự án đổi mới, đột phá mà cơ chế ngân sách truyền thống khó đáp ứng kịp thời và hiệu quả. Chính sách quy định Quỹ sẽ hoạt động như một "quỹ đầu tư" cho các sáng kiến giáo dục, ưu tiên tài trợ cho các dự án thí điểm đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, các nghiên cứu khoa học giáo dục có tính ứng dụng cao, các dự án chuyển đổi số và cấp học bổng cho các tài năng trẻ. Với nguồn vốn đa dạng từ ngân sách, xã hội hóa và các nguồn viện trợ, Quỹ sẽ là đòn bẩy tài chính quan trọng, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới từ cấp cơ sở.

Thứ sáu, nhóm chính sách về tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo (Điều 8) được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng, ngăn chặn sụt giảm ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học và tăng cường huy động nguồn lực xã hội. Trong đó:

Quy định tỷ lệ chi tối thiểu 20% tổng chi NSNN cho giáo dục, trong đó chi đầu tư phát triển không thấp hơn 5% và chi cho giáo dục đại học không thấp hơn 3% tổng chi ngân sách nhà nước. Chính sách nhằm chấm dứt tình trạng phân bổ ngân sách không đạt mục tiêu, đảo ngược xu thế suy giảm đầu tư cho giáo dục đại học, tạo nguồn lực tài chính ổn định và nền tảng để các trường đại học nâng cao chất lượng, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học.

Ngân sách nhà nước ưu tiên bố trí cho giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế; đồng thời bảo đảm đầu tư thích đáng cho giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên theo định hướng phát triển nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ.

Khuyến khích xã hội hóa, huy động nguồn lực hợp pháp từ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để phát triển giáo dục; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả; đồng thời cho phép áp dụng cơ chế, thủ tục rút gọn đối với một số dự án đầu tư công quan trọng trong lĩnh vực giáo dục.

Nhà nước bảo đảm ngân sách trung ương để cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho học sinh các cơ sở giáo dục phổ thông công lập, phấn đấu hoàn thành mục tiêu này trước năm 2030 và cung cấp miễn phí giáo trình, miễn học phí đối với môn Giáo dục quốc phòng và an ninh tại các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp...

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

Minh Hiển

Nguồn Chính Phủ: https://baochinhphu.vn/de-xuat-6-nhom-chinh-sach-dac-thu-de-thuc-hien-dot-pha-phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-102250926094054296.htm