Đề xuất chi trả BHYT cho sàng lọc ung thư cổ tử cung, ung thư vú
Theo đại diện Bộ Y tế, dự án luật BHYT đề xuất ưu tiên mở rộng phạm vi chi trả BHYT cho sàng lọc chẩn đoán sớm 6 bệnh là ung thư cổ tử cung, ung thư vú, đái tháo đường, cao huyết áp, viêm gan B, C.
Tại Hội thảo tham vấn ý kiến về hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT mới đây, bà Trần Thị Trang, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế, Bộ Y tế cho biết, dự án luật đang đề xuất mở rộng phạm vi chi trả của BHYT, tuy nhiên điều khó nhất hiện nay là khả năng cân đối quỹ.
Theo đó, dự thảo đề xuất ưu tiên mở rộng phạm vi chi trả BHYT cho sàng lọc chẩn đoán sớm 6 bệnh là ung thư ung thư cổ tử cung, ung thư vú, đái tháo đường, cao huyết áp, viêm gan C và viêm gan B. Trong đó, ưu tiên sớm hơn cho sàng lọc chẩn đoán sớm ung thư cổ tử cung và ung thư vú. Đây là nhóm bệnh ung thư phổ biến, gây gánh nặng bệnh tật lớn.
Ngành y tế đã tiến hành đánh giá tác động với 6 bệnh này, cụ thể, với mức đóng 4,5% như hiện tại thì trong ngắn hạn khả năng quỹ sẽ khó tải nổi, có thể trong 5 năm chi từ quỹ tăng cao đột biến. Tuy nhiên, khi chẩn đoán, sàng lọc sớm sẽ tiết kiệm được chi phí điều trị của giai đoạn muộn (bao gồm số ngày giường điều trị tăng, tăng tỷ lệ sử dụng kháng sinh, các thuốc đắt tiền…).
"Trong ngắn hạn tiền quỹ có thể tăng nhưng dài hạn chúng ta tiết kiệm được rất nhiều chi phí khác trong đó có thuốc, theo ước tính tiền thuốc chiếm hơn 20% cơ cấu chi của BHYT", bà Trang phân tích.
Nghiên cứu cho thấy, ước tính chi phí cho sàng lọc ung thư cổ tử cung khoảng từ 2,6 - 3 nghìn tỉ đồng/năm, với ung thư vú là 2,5 - 5,3 nghìn tỉ đồng/năm. Trong khi đó, chi phí điều trị trung bình/năm của người bệnh ung thư cổ tử cung ở các giai đoạn từ I đến IV lần lượt là 89,8 triệu, 136,9 triệu, 138,4 triệu và 136,8 triệu đồng/năm. Do đó, nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm (giai đoạn I), người bệnh sẽ tiết kiệm từ 47 - 48,6 triệu đồng/năm so với người bệnh phát hiện ở các giai đoạn muộn hơn.
Tương tự với bệnh ung thư vú, nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm, người bệnh sẽ tiết kiệm từ 7,9 - 18,3 triệu đồng/năm so với người bệnh phát hiện ở các giai đoạn muộn hơn.
Bà Trang chia sẻ, số tiền người bệnh và BHYT đồng chi trả khi phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn sẽ tốn kém hơn rất nhiều. Bởi vậy, việc sàng lọc bệnh sớm có thể sẽ gây gánh nặng lên quỹ BHYT trong thời gian đầu nhưng sau đó sẽ giúp giảm chi phí điều trị chuyên sâu. Vì vậy, sẽ không làm ảnh hưởng nhiều đến quỹ trong tương lai.
4 chính sách trong đề nghị xây dựng Luật BHYT sửa đổi:
Thứ nhất, điều chỉnh đối tượng tham gia BHYT đồng bộ với các quy định của pháp luật có liên quan;
Thứ hai, điều chỉnh phạm vi quyền lợi BHYT phù hợp với mức đóng, cân đối quỹ BHYT và yêu cầu chăm sóc sức khỏe trong từng giai đoạn.
Thứ ba, điều chỉnh các quy định về BHYT có liên quan theo cấp chuyên môn kỹ thuật khám chữa bệnh và phát huy vai trò của y tế cơ sở trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh BHYT.
Thứ tư, phân bổ sử dụng quỹ BHYT hiệu quả. Theo đó, dự thảo Luật BHYT sửa đổi đề xuất điều chỉnh chi phí quản lý tối đa 5% như quy định hiện hành xuống tối đa 4% cho hoạt động quản lý quỹ BHYT. Phần còn lại 1% bổ sung vào quỹ khám bệnh, chữa bệnh BHYT.