Đề xuất giảm trừ gia cảnh thuế TNCN bằng 1,5 GDP bình quân đầu người
Chuyên gia cho rằng mức giảm trừ gia cảnh không còn theo kịp thực tế khi giá cả và lạm phát tăng cao, đề xuất điều chỉnh linh hoạt hơn để công bằng thuế và hỗ trợ người lao động.

Giảm trừ gia cảnh là một công cụ quan trọng giúp duy trì công bằng thuế và đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Ảnh: ITN.
Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của Việt Nam có hiệu lực từ năm 2009, đánh dấu lần đầu tiên áp dụng mức giảm trừ gia cảnh. Khi đó, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm) và 1,6 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc.
Qua các lần điều chỉnh vào năm 2013 và 2020, con số này lần lượt tăng lên 9 triệu đồng, rồi 11 triệu đồng mỗi tháng cho bản thân người nộp thuế. Tuy nhiên, từ năm 2020 đến nay, mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên trong khi chi phí sinh hoạt ngày càng leo thang.
Chia sẻ tại Hội thảo "Luật Thuế TNCN - Đảm bảo công bằng, thúc đẩy tăng trưởng", PGS.TS Lê Xuân Trường - Trưởng Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính cho rằng việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo chu kỳ 6-7 năm khiến chính sách này nhanh chóng trở nên lạc hậu so với thực tế, đặc biệt khi giá cả và lạm phát tăng cao.
Dữ liệu cho thấy mức giảm trừ gia cảnh tại Việt Nam ngày càng thấp hơn so với GDP bình quân đầu người. Nếu năm 2009, mức giảm trừ bản thân gấp 2,25 lần GDP bình quân đầu người thì đến năm 2024, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 1,15 lần.
So sánh với quốc tế, mức giảm trừ gia cảnh của Việt Nam cao hơn một số nước Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan, nhưng lại chưa có sự linh hoạt trong điều chỉnh.
Trong khi đó, nhiều quốc gia đã áp dụng các chính sách giảm trừ linh hoạt như bổ sung ưu đãi cho người khuyết tật, người già hay chi phí y tế, giáo dục. Một số nước như Mỹ, Singapore còn có cơ chế điều chỉnh mức giảm trừ hàng năm dựa trên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đảm bảo phù hợp với thực tế kinh tế.
Tại Việt Nam, quy định hiện hành chỉ cho phép điều chỉnh khi CPI biến động trên 20%, dẫn đến việc mức giảm trừ gia cảnh thường bị lỗi thời, không kịp thời hỗ trợ người nộp thuế.
Để khắc phục, PGS.TS Lê Xuân Trường đề xuất điều chỉnh mức giảm trừ gắn với GDP bình quân đầu người, đảm bảo duy trì ở mức khoảng 1,5 lần GDP. Đồng thời, cần bổ sung cơ chế giảm trừ cho các nhóm yếu thế và thay đổi cách điều chỉnh định kỳ theo CPI để chính sách luôn phù hợp với thực tế.
Tại hội thảo, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định rằng biểu thuế lũy tiến từng phần hiện nay cũng cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế. Việt Nam đang áp dụng 7 bậc thuế thu nhập cá nhân, trong đó mức cao nhất lên tới 35%.
Tuy nhiên, do khoảng cách giữa các bậc thuế quá hẹp, chỉ cần thu nhập tăng nhẹ, người lao động đã có thể bị đẩy vào nhóm chịu thuế cao hơn, làm giảm động lực kiếm thêm thu nhập.
PGS.TS Phan Hữu Nghị, Phó viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng số bậc thuế hiện tại chưa thực sự hợp lý, khi nhiều người có thu nhập trung bình vẫn phải chịu thuế suất cao.
Ông đề xuất giảm còn 5 bậc thuế và nới rộng khoảng cách thu nhập giữa các bậc để phản ánh chính xác hơn khả năng đóng góp của từng nhóm thu nhập.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng nhấn mạnh rằng thuế suất cao chỉ nên áp dụng cho những người có thu nhập thực sự cao, thay vì áp dụng dàn trải như hiện nay. Điều này không chỉ đảm bảo công bằng trong chính sách thuế mà còn khuyến khích người lao động tăng thu nhập mà không lo bị đánh thuế quá mức.