Đề xuất giao trách nhiệm tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ, giáo viên trong phạm vi cấp xã cho Chủ tịch UBND xã
Thảo luận tại tổ sáng 17/11 về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, các ĐBQH Tổ 3 (Thanh Hóa, Tây Ninh) đề xuất giao cho Chủ tịch UBND cấp xã trách nhiệm tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ, giáo viên trong phạm vi cấp xã.
Gỡ khó về tuyển dụng giáo viên ở cấp xã
Thảo luận tại tổ, các ĐBQH tán thành với sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết. Dự thảo Nghị quyết đã cơ bản thể chế hóa tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW; xác lập được một số cơ chế, chính sách tạo tiền đề quan trọng để chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo theo hướng hội nhập; đồng thời, tạo khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách vượt trội giúp tháo gỡ "điểm nghẽn", tạo đà phát triển đột phá giáo dục và đào tạo.

Các ĐBQH tham gia thảo luận tại tổ 3. Ảnh: Khánh Duy
Tuy nhiên, các ĐBQH bày tỏ băn khoăn về các quy định liên quan đến thẩm quyền quản lý, tuyển dụng nhân sự và chính sách ưu đãi đối với nhân lực trong ngành giáo dục có những điểm cần được nghiên cứu, điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn.
ĐBQH Mai Văn Hải (Thanh Hóa) dồng tình với các chính sách lớn dự thảo nghị quyết đang đề xuất, tuy nhiên cho rằng, ban soạn thảo cần rà soát kỹ lưỡng để tránh trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với các quy định hiện hành trong Luật Giáo dục, Luật Nhà giáo, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp và một số luật đang được Quốc hội thảo luận tại Kỳ họp thứ Mười.

ĐBQH Mai Văn Hải phát biểu thảo luận. Ảnh: Khánh Duy
Góp ý vào các nội dung liên quan đến việc phát triển nguồn nhân lực ngành giáo dục, ĐBQH Mai Văn Hải cho rằng, hiện nay việc tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và giáo viên nói riêng đang chưa có sự thống nhất về thẩm quyền giữa Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo và Chủ tịch UBND xã.
Đại biểu nêu rõ: Tại Điểm a Khoản 4, Điều 2 dự thảo Nghị quyết quy định: “Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện thẩm quyền tuyển dụng, tiếp nhận đối với nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, trường chuyên biệt và trường trung học nghề công lập”. Bên cạnh đó, Nghị định 142/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp trong lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có quy định tương tự dự thảo nghị quyết.
Tuy nhiên, Khoản 10 Điều 23 Luật Tổ chức chính quyền địa phương lại quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND xã là “chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức, viên chức trên địa bàn theo quy định của pháp luật và phân cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; quyết định bổ nhiệm, nghiên nhiệm, điều động, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình quản lý”.
Theo ĐBQH Mai Văn Hải, bám sát tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó có yêu cầu về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ quản lý, giáo viên trong cùng bậc học và trong phạm vi địa bàn cấp xã nên giao cho Chủ tịch UBND xã quyết định.
Bên cạnh đó, việc tuyển dụng giáo viên nên để UBND xã chủ động tổ chức trên cơ sở chỉ tiêu hằng năm do Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu HĐND tỉnh phân bổ. Sở Giáo dục và Đào tạo kiểm tra, giám sát quy trình tuyển dụng bảo đảm đúng quy định pháp luật, thay vì đứng ra tổ chức tuyển dụng tập trung.
“Tôi cho rằng nếu giao toàn bộ thẩm quyền tuyển dụng cho Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ dẫn đến nhiều bất cập, như: tuyển dụng tập trung theo đợt, không kịp thời đáp ứng nhu cầu, thủ tục chậm trễ, thiếu sự chủ động tại địa phương. Trong khi đó, giao thẩm quyền cho cấp xã sẽ linh hoạt, sát thực tiễn và phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hiện nay” - đại biểu Mai Văn Hải nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm trên, ĐBQH Lê Thị Song An (Tây Ninh) cho rằng, thủ tục tuyển dụng giáo viên hiện nay còn quá chậm do Sở Giáo dục và Đào tạo phải chờ các xã tổng hợp nhu cầu rồi mới trình kế hoạch lên UBND tỉnh. Trong khi đó, quá trình xét thuyên chuyển và tuyển dụng kéo dài, gây thiếu hụt giáo viên tại các đơn vị, nhất là cấp xã.
Khắc phục khó khăn này, đại biểu Song An cũng đề nghị nên giao cho cấp xã được chủ động tuyển dụng giáo viên và nhân viên để bảo đảm tính kịp thời; Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ thực hiện vai trò hỗ trợ chuyên môn, thẩm định và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện.
Cụ thể hơn các chính sách đặc thù, đãi ngộ nhân lực ngành giáo dục
Thảo luận về chính sách đặc thù và đãi ngộ đối với nhân lực ngành giáo dục được quy định tại Khoản 2 Điều 2, ĐBQH Lê Thị Song An cho rằng, chính sách “đặc thù” phải thể hiện được sự khác biệt rõ ràng. Vì vậy, cần làm rõ cơ sở của mức phụ cấp tối thiểu 70% cho giáo viên phổ thông và mầm non, xem đây có thật sự là ưu đãi vượt trội hay không. Đại biểu đề nghị ưu tiên mức hỗ trợ cao hơn cho giáo viên mầm non và tiểu học do đặc thù công việc nặng, phải đảm nhiệm cả nhiệm vụ chăm sóc trẻ và thời gian làm việc dài.

ĐBQH Lê Thị Song An (Tây Ninh) phát biểu. Ảnh: Khánh Duy
“Về lộ trình, mức 70% cần được đánh giá lại tính khả thi; nếu áp dụng, phải ưu tiên cho mầm non và tiểu học trước và phân loại rõ giáo viên từng bậc học để bảo đảm công bằng và phù hợp với nguồn lực” - đại biểu Song An nhấn mạnh.
Thảo luận về vấn đề này, một số đại biểu cũng cho rằng, mức phụ cấp 30% đối với nhân viên hành chính và 100% đối với cán bộ, giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới, hải đảo là hoàn toàn phù hợp. Đối với các nhóm giáo viên còn lại, dự thảo nghị quyết quy định mức phụ cấp ít nhất 70%. Các ĐBQH cho rằng cần xem xét cụ thể hơn quy định này.
Theo các đại biểu, không nên áp dụng chung một mức phụ cấp cho tất cả các bậc học từ mầm non đến THPT. Bởi, mỗi cấp học có đặc thù, khối lượng công việc, điều kiện giảng dạy và mức độ khó khăn khác nhau. Vì vậy, mức phụ cấp cũng cần linh hoạt và phân tầng, bảo đảm công bằng, phù hợp thực tiễn.

Toàn cảnh thảo luận tại Tổ 3. Ảnh: Khánh Duy
Bên cạnh đó, quy định “ít nhất 70%” nhưng không xác định mức tối đa dẫn tới không rõ ràng. Vì vậy, các ĐBQH đề nghị cụ thể hóa mức trần và sàn phụ cấp, phân chia theo từng cấp học, từng nhóm đối tượng, bảo đảm đồng bộ và tạo động lực thực chất cho đội ngũ nhà giáo.
Liên quan đến quy định về hợp tác phát triển chương trình giáo dục, ĐBQH Lê Thị Song An (Tây Ninh) cho rằng, dự thảo quy định Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định một bộ sách giáo khoa phổ thông sử dụng thống nhất trong toàn quốc. Chủ trương này nhận được sự đồng tình của cử tri và đại biểu.
Tuy nhiên, để bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm giải trình ở tầm cao hơn, đặc biệt trong lộ trình hướng tới cung cấp sách giáo khoa miễn phí cho học sinh vào năm 2030, đại biểu đề nghị giao thẩm quyền này cho Chính phủ. Việc quyết định bộ sách giáo khoa không chỉ liên quan đến Bộ Giáo dục và Đào tạo mà còn cần sự phối hợp của nhiều bộ, ngành và các địa phương.
Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết có đề xuất cho phép các địa phương có điều kiện thực hiện miễn phí sách giáo khoa từ năm 2022 - 2027. Đại biểu bày tỏ lo ngại về sự bất bình đẳng có thể phát sinh khi học sinh ở các khu vực phát triển, có điều kiện kinh tế tốt lại được miễn phí sách giáo khoa, trong khi học sinh ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, miền núi, những nơi còn rất nhiều khó khăn lại phải tự bỏ tiền mua sách.
Do đó, đại biểu Song An đề nghị cần xem xét lại quy định này để bảo đảm công bằng trong giáo dục. Nếu triển khai chính sách miễn phí sách giáo khoa, phải ưu tiên học sinh vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng hải đảo. Trong trường hợp áp dụng theo lộ trình, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ các địa phương còn hạn chế về nguồn lực; đồng thời, có thể xem xét cơ chế để các địa phương thuận lợi hỗ trợ những địa phương khó khăn, nhằm bảo đảm mọi học sinh nghèo đều được tiếp cận sách giáo khoa miễn phí. Điều này sẽ góp phần tạo điều kiện tốt hơn cho học sinh ở vùng khó khăn vươn lên trong học tập.













