Đề xuất lập trung tâm nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ pin
Nhờ có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú như niken, coban và đất hiếm, Việt Nam có tiềm năng lớn để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng pin toàn cầu. Tuy nhiên, chuỗi cung ứng pin của nước ta vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu; muốn phát huy tiềm năng này, cần phát triển công nghệ sản xuất thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), thành lập các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ pin…
Tiềm năng lớn để tham gia chuỗi cung ứng pin toàn cầu
“Chúng ta đang chứng kiến sự dịch chuyển mạnh mẽ của ngành năng lượng toàn cầu, với pin lithium-ion đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của xe điện (EV) và hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS)”, ông Lê Tuấn Anh - Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết tại hội thảo khởi động “Nâng cao chuỗi cung ứng pin cho chuyển dịch năng lượng (Việt Nam)”, do Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) thuộc Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên Hợp Quốc (UNOPS) phối hợp tổ chức sáng 20.2.

Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ Lê Tuấn Anh phát biểu.
Dẫn báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế công bố tháng 12.2024, ông Tuấn Anh cho biết, nhu cầu về pin sẽ tiếp tục tăng nhanh dựa trên các chính sách hiện tại, dự kiến tăng gấp 4,5 lần vào năm 2030 và hơn 7 lần vào năm 2035. Công suất pin toàn cầu năm 2023 đạt khoảng 850GWh, tăng hơn 40% so với năm 2022, trong đó xe điện vẫn là động lực chính thúc đẩy thị trường pin. Nguồn nhu cầu về pin cho xe điện chiếm khoảng 750GWh tương đương gần 90% tổng nhu cầu về pin trong năm 2023. Cũng trong năm này, Trung Quốc là thị trường pin lớn nhất, chiếm khoảng 55% nhu cầu toàn cầu.
Hiện, Việt Nam có tiềm năng lớn để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng pin toàn cầu nhờ nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, bao gồm niken, coban và đất hiếm. Việt Nam cũng đặt mục tiêu đầy tham vọng trong chuyển đổi năng lượng. Theo Quy hoạch Điện VIII, định hướng phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện đạt tỷ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Việt Nam được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất, đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.
Các chính sách phát triển pin lưu trữ năng lượng cũng đã được ban hành, như Luật Điện lực khuyến khích đầu tư dự án điện gió, điện mặt trời kết hợp lưu trữ năng lượng; hỗ trợ tài chính cho hộ gia đình lắp đặt điện mặt trời mái nhà và lưu trữ năng lượng; cơ chế ưu đãi phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng phù hợp với trình độ công nghệ trong nước…

Quang cảnh hội thảo
Dù có nhiều tiềm năng và cơ chế chính sách đã có, song chuỗi cung ứng pin của chúng ta vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu và còn nhiều thách thức. Đó là năng lực sản xuất các vật liệu quan trọng này còn hạn chế, sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, các chính sách hỗ trợ cần tiếp tục hoàn thiện. Cùng với đó, sự phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng chuỗi cung ứng nội địa mạnh mẽ và linh hoạt hơn.
Hợp tác quốc tế để đa dạng hóa nguồn cung
Để nâng cao chuỗi cung ứng pin cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam, việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế là cần thiết.
Dẫn kinh nghiệm tại Australia, GS.TS Aruna Ranaweera, Đại học Kelaniya, Sri Lanka cho biết, nước này có sự hỗ trợ mạnh mẽ ngành pin thông qua các quỹ chính phủ và sáng kiến chiến lược như Quỹ năng lượng tái tạo, Chương trình đầu tư năng lực và chiến lược pin quốc gia. Bên cạnh đó, nước này cũng cập nhật danh sách khoáng sản quan trọng để thu hút đầu tư vào các khoáng sản liên quan đến pin, được hỗ trợ bởi Quỹ tái thiết quốc gia và kết cấu hạ tầng Bắc Australia; phân bổ 123 triệu USD cho Kế hoạch pin sản xuất trong nước, củng cố cam kết phát triển công nghệ và kết cấu hạ tầng pin; thiết lập nhiều thỏa thuận song phương với Hoa Kỳ, Singapore, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Đức về hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản quan trọng và năng lượng tái tạo…

Các đại biểu tham dự hội thảo
Còn tại Ấn Độ, việc phát hiện ra trữ lượng lithium tại Jharkhand và Rajasthan đã giúp nước này trở nên tự chủ hơn trong sản xuất pin. Việc sử dụng cơ chế tài trợ khoảng cách khả thi của Ấn Độ cho các dự án lưu trữ năng lượng độc lập giúp bù đắp sự chênh lệch giữa chi phí dự án và doanh thu dự kiến, từ đó thúc đẩy đầu tư. Ấn Độ cũng đã đặt ra các mục tiêu lưu trữ năng lượng cấp bang, ví dụ như mục tiêu 10GWh của Rajasthan vào năm 2030… “Việc tập trung vào xác định và phát triển các nguồn khoáng sản quan trọng trong nước tương tự có thể giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào nhập khẩu và củng cố chuỗi cung ứng pin nội địa. Phát triển các trữ lượng trong nước không chỉ nâng cao khả năng tự chủ mà còn củng cố vị thế của Việt Nam trên thị trường pin toàn cầu”, GS.TS Aruna Ranaweera phát biểu.
Nhấn mạnh Việt Nam đang nổi lên là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng xe điện toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp nguyên liệu thô và sản xuất pin xe điện, với trữ lượng niken đáng kể tại các mỏ ở Sơn La, PGS.TS Đinh Công Hoàng, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng, để hiện thực hóa tiềm năng này, cần triển khai các chiến lược phát triển bền vững, bao gồm đa dạng hóa các nguồn cung nguyên liệu thông qua hợp tác quốc tế vừa bảo đảm ổn định nguồn cung vừa giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ khai thác và chế biến tiên tiến; đồng thời phát triển nguồn cung nội địa thông qua đầu tư vào việc thăm dò và khai thác các mỏ khoáng sản trong nước.
Cùng với đó, cần phát triển công nghệ sản xuất thông qua đầu tư vào R&D, thành lập các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ pin, hợp tác với các viện nghiên cứu và trường đại học để phát triển các giải pháp pin tiên tiến, hiệu suất cao và thân thiện với môi trường; hợp tác với các công ty quốc tế để tiếp nhận và nội địa hóa công nghệ sản xuất pin hiện đại, từ đó nâng cao chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Một yếu tố rất quan trọng là kết cấu hạ tầng hỗ trợ, do đó, cần phát triển mạng lưới trạm sạc phủ khắp đô thị và tuyến giao thông chính, bảo đảm người dùng có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng; đồng thời, tuân thủ các quy định về môi trường trong quá trình khai thác, sản xuất và tái chế pin, phát triển các công nghệ và quy trình tái chế pin đã qua sử dụng, tận dụng tối đa nguyên liệu và giảm lượng rác thải...
Chia sẻ với các ý kiến trên, ông Lê Tuấn Anh cho rằng, tăng cường năng lực khai thác, chế biến khoáng sản sâu, nhất là khoáng sản quý hiếm để giảm phụ thuộc vào nước ngoài là cần thiết; thực tế có tình trạng doanh nghiệp đăng ký dự án khoáng sản bao giờ cũng gắn khai thác với chế biến, song đa số dự án tập trung vào khai thác, đến lúc đầu tư nhà máy chế biến thì lấy lý do hiệu quả thấp, khó khăn về thị trường và xin xuất khẩu quặng thô; tới đây, chúng tôi sẽ tham mưu, kiến nghị để xử lý vấn đề này, ông Tuấn Anh cho biết thêm.