Đề xuất mở rộng thẩm phán tòa án chuyên biệt là người nước ngoài
Về thẩm phán tòa án chuyên biệt, đại biểu thống nhất có thể mở rộng nguồn bổ nhiệm là người nước ngoài, nhằm đáp ứng các yêu cầu trước mắt trong giai đoạn hiện nay.
Lập cơ chế giải quyết hiệu quả tranh chấp phát sinh
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, chiều 5/12, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự án Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế.

Đại biểu Đặng Bích Ngọc - đoàn Phú Thọ
Qua nghiên cứu dự thảo báo cáo và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, đại biểu Đặng Bích Ngọc - đoàn Phú Thọ cơ bản đồng tình.
Theo đại biểu, việc thành lập tòa án chuyên biệt tại trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam là cần thiết để thể chế hóa chủ trương của Đảng, kết luận của các cấp có thẩm quyền nhằm tạo lập cơ chế giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong hoạt động đầu tư, kinh doanh tại trung tâm tài chính quốc tế với trình tự, thủ tục hiện đại, vượt trội, phù hợp với thông lệ quốc tế trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thiện dự án luật, Ban soạn thảo cần đảm bảo thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng về việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm, về xây dựng, vận hành trung tâm tài chính quốc tế nói chung và tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế nói riêng, đảm bảo phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 222 của Quốc hội khóa XV về trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam và Luật số 81 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân.
Bên cạnh đó, đại biểu nêu, tại Điều 11 của dự thảo luật quy định thư ký tòa án chuyên biệt do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện: Có phẩm chất đạo đức tốt, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án chuyên biệt; có trình độ tiếng Anh phù hợp để thực hiện nhiệm vụ tại tòa án chuyên biệt; có điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm thư ký Tòa án theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân.
Dự thảo luật quy định điều kiện bổ nhiệm thư ký tòa án theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân, trong đó có tiêu chuẩn được tuyển dụng làm công chức tòa án.
Như vậy, chỉ người được tuyển dụng làm công chức của tòa án nhân dân mới có thể trở thành thư ký của tòa án này. Điều này sẽ thu hẹp phạm vi nguồn để lựa chọn, bổ nhiệm thư ký tòa án chuyên biệt và chưa phù hợp với chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc tại tòa án, đặc biệt là đối với các tòa án chuyên biệt.
Vì vậy, đại biểu đề nghị cần quy định theo hướng những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm thư ký và không nhất thiết phải từ nguồn những người đã được tuyển dụng làm công chức tòa án nhân dân.
Theo đó, chúng ta sẽ phát huy được những người có trình độ chuyên môn và những người có khả năng mà không phải làm việc trong ngành tòa án nhưng đủ các điều kiện, tiêu chuẩn trong bối cảnh hiện nay thì có thể lựa chọn để bổ nhiệm làm thư ký, như vậy sẽ đáp ứng được các điều kiện.
Đại biểu cũng đề nghị, sau một thời gian hoạt động, cần phải tổng kết tình hình thực tiễn và nghiên cứu cho phép mở rộng phạm vi, thẩm quyền của tòa án chuyên biệt để giải quyết các tranh chấp về đầu tư kinh doanh mà đương sự là nhà đầu tư nước ngoài, không phải là thành viên Trung tâm tài chính quốc tế nhưng lựa chọn tòa án chuyên biệt để giải quyết.
Quy định này sẽ góp phần nâng cao vị thế, uy tín, tạo sự cạnh tranh của tòa án, phát huy hiệu quả các nguồn lực của tòa án chuyên biệt phù hợp với thực tiễn và kinh nghiệm hoạt động của tòa án một số nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với các bên không phải là thành viên trung tâm tài chính quốc tế.
Về thẩm quyền bổ nhiệm chánh án tòa án chuyên biệt, đại biểu nhất trí với phương án chánh án tòa án chuyên biệt do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Quy định này đảm bảo phù hợp, thống nhất về thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong công tác bổ nhiệm các chức danh trong hệ thống tòa án nhân dân.
Về thẩm phán tòa án chuyên biệt, hiện nay, trong dự thảo luật quy định bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài đảm bảo quy định theo khoản 2 Điều 9.
Trong bối cảnh hiện nay, khi thẩm phán của Việt Nam chưa đủ về số lượng cũng như không đảm bảo về chất lượng, có thể khó thực hiện nhiệm vụ xét xử dẫn đến hiệu quả sẽ hạn chế. Đặc biệt, thẩm phán thì thiếu kinh nghiệm cho nên khó có thể cạnh tranh với các tòa án chuyên biệt của các nước trên thế giới.
Do đó, đại biểu thống nhất có thể mở rộng nguồn bổ nhiệm là người nước ngoài là phù hợp và đáp ứng các yêu cầu trước mắt trong giai đoạn hiện nay. "Điều này sẽ góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, có kinh nghiệm, đồng thời là điều kiện rất tốt để các thẩm phán và thư ký là người Việt Nam có cơ hội học tập, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của mình" - đại biểu Đặng Bích Ngọc nói.
Bước mở thể chế mang tính đột phá
Đại biểu Lê Thu Hà - đoàn Lào Cai nhận xét, dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế là một bước mở thể chế mang tính đột phá. Lần đầu tiên chúng ta xây dựng một thiết chế tư pháp chuyên biệt, quốc tế hóa ngay trên lãnh thổ Việt Nam, nhằm xử lý tranh chấp thương mại có tính toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh pháp lý của Việt Nam trong khu vực.

Đại biểu Lê Thu Hà - đoàn Lào Cai
Để mô hình này thực sự hấp dẫn với nhà đầu tư, theo tôi luật cần bảo đảm 3 tiêu chí cốt lõi: Một là, cạnh tranh quốc tế thủ tục nhanh, minh bạch, ngôn ngữ thân thiện với chuẩn thương mại toàn cầu.
Hai là, bảo hộ chủ quyền tư pháp, mở cửa nhưng không đánh đổi an ninh pháp lý và lợi ích công.
Ba là, hiệu lực thi hành thực chất, phán quyết phải thi hành được cả trong nước và ngoài nước.
Về thẩm phán nước ngoài và ngôn ngữ tố tụng tại Điều 9 và Điều 13, đại biểu ủng hộ việc thu hút thẩm phán và chuyên gia quốc tế có uy tín tham gia xét xử theo vụ việc. Đây là lợi thế cạnh tranh cốt lõi của mô hình tòa án chuyên biệt.
Tuy nhiên, dự thảo cần làm rõ cơ chế phòng ngừa xung đột lợi ích, đặc biệt với trường hợp thẩm phán có hoạt động tư vấn trọng tài hoặc lợi ích kinh tế liên quan đến các bên; phạm vi miễn trừ tư pháp cũng cần được xác định rõ có chịu trách nhiệm khi có lỗi cố ý hay không?
Về ngôn ngữ, việc cho phép sử dụng tiếng Anh trong tố tụng và bản án là cải cách táo bạo cần giữ. Tuy nhiên cần quy định rõ khi có khác biệt giữa bản tiếng Anh và tiếng Việt thì bản nào là bản chuẩn dùng để giải thích pháp lý và cơ chế lưu chiểu, công bố bản án có thể thiết kế trong quy tắc tố tụng theo hướng bản tiếng Anh là bản gốc cho giao dịch quốc tế và bản tiếng Việt phục vụ công bố và giám sát trong nước.
"Tôi nghĩ mở cửa hội nhập là cần thiết, nhưng tính minh bạch và khả năng giải trình thống nhất phải bảo đảm để tạo môi trường pháp lý ổn định, dự báo được cho nhà đầu tư" - đại biểu nêu.
Về áp dụng pháp luật nước ngoài và thủ tục tố tụng tại Điều 5 của Chương III, đại biểu thông tin, dự thảo cho phép các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa tham gia, trừ trường hợp trái với trật tự công của Việt Nam.
Đây là cách tiếp cận mở và phù hợp với xu hướng hội nhập, nhưng nếu không quy định rõ thì có thể phát sinh rủi ro trong áp dụng thực tế. Song đề nghị làm rõ khái niệm trật tự công của Việt Nam ngay trong luật hoặc thông qua hướng dẫn án lệ nhằm tránh cách hiểu tùy nghi và tăng tính dự báo cho doanh nghiệp.
Về chi phí tố tụng, tại Điều 19, quy định bên thua kiện phải chịu chi phí hợp lý cho luật sư và các chi phí khác là phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng cần có khung kiểm soát để tránh gánh nặng bất hợp lý.
Do vậy, đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc xác định chi phí hợp lý, giao Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn theo tiêu chí tham chiếu với thông lệ quốc tế để bảo đảm khả thi với điều kiện của Việt Nam. Quy định nghĩa vụ chứng minh chi phí thuộc về bên yêu cầu, bảo đảm minh bạch và công bằng giữa các bên.
Ngoài ra, để theo dõi hiệu quả mô hình, đại biểu đề nghị bổ sung cơ chế báo cáo định kỳ về tỷ lệ và thời gian thi hành án lên Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, coi đây như là một chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của tòa án chuyên biệt.
Cùng với đó, do mô hình được thiết kế với nhiều cơ chế đặc thù và bước mở vượt trội, do vậy đại biểu cho rằng, cần quy định cơ chế rà soát, cập nhật thường xuyên trong quá trình triển khai, có thể xem xét, đánh giá tổng thể sau 3 đến 5 năm vận hành dựa trên các chỉ số như thời gian giải quyết vụ việc, tỷ lệ thi hành bản án, mức độ lựa chọn của doanh nghiệp, nhà đầu tư và phản hồi của thị trường quốc tế.
Việc đánh giá định kỳ sẽ giúp nhận diện sớm các vướng mắc, điều chỉnh kịp thời những điểm chưa phù hợp và tiếp tục hoàn thiện các ưu điểm vượt trội, qua đó củng cố niềm tin, tăng sức hấp dẫn đầu tư và nâng vị thế pháp lý của mô hình tòa án chuyên biệt.
Theo đại biểu Lê Thu Hà - đoàn Lào Cai, một bản án tốt nhưng thi hành khó còn rủi ro hơn việc không có tòa án, vì vậy nếu chúng ta đã mở ra một mô hình mới thì cần bảo đảm vận hành thông suốt, minh bạch, được tin cậy cả trong nước lẫn quốc tế và môi trường đầu tư chỉ thực sự được củng cố khi phán quyết của tòa án chuyên biệt được đi vào cuộc sống, bảo vệ quyền lợi của các bên, tạo dựng được niềm tin lâu dài.











