Đến 2035, Việt Nam sẽ có hơn 10.600 MW thủy điện tích năng

Trong giai đoạn từ nay đến 2030, Việt Nam sẽ có 3.600 MW từ thủy điện tích năng và giai đoạn 2031 - 2035 sẽ có thêm khoảng hơn 7.000 MW từ nguồn pin nước này.

Bổ sung hơn 7.000 MW thủy điện tích năng

Trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, thủy điện tích năng (TĐTN) được xác định là một trong những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao khả năng điều tiết hệ thống điện, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn tới.

Theo danh mục, giai đoạn 2025 - 2035, cả nước có 22 dự án TĐTN với tổng công suất dự kiến lên đến 10.672 MW, trải dài từ miền Bắc, miền Trung đến Tây Nguyên. Đây đều là các dự án có vị trí địa hình thuận lợi, được xem xét đầu tư trên cơ sở đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, nhu cầu phụ tải và khả năng tích hợp với hệ thống truyền tải quốc gia.

Cụ thể, giai đoạn từ nay đến 2030, dự kiến sẽ có 4 dự án với tổng công suất 3.600 MW đi vào hoạt động, trong đó có 2 nhà máy nằm trong Quy hoạch điện VIII là TĐTN Bắc Ái, TĐTN Bắc Phước Hòa tại Ninh Thuận có cùng công suất lên tới 1.200 MW/mỗi nhà máy.

Ngoài ra, có 2 dự án là TĐTN Đông Phù Yên (Sơn La) công suất 900 MW và TĐTN Đơn Dương 1 (Lâm Đồng) với công suất 300 MW cũng đã được bổ sung trong danh mục điều chỉnh giai đoạn vận hành.

Giai đoạn 2031 - 2035 dự kiến sẽ có 18 dự án với tổng công suất là 7.072 MW chủ yếu nằm ở phía Bắc và miền Trung Việt Nam.

Danh sách chi tiết các dự án thủy điện tích năng theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh

Danh sách chi tiết các dự án thủy điện tích năng theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh

Hỗ trợ nguồn tái tạo và giảm chi phí hệ thống

Như đã biết, khác với thủy điện truyền thống, thủy điện tích năng hoạt động theo nguyên lý “bơm - xả nước”, cho phép lưu trữ điện năng vào giờ thấp điểm và phát điện vào giờ cao điểm. Nhờ đó, loại hình này được ví như “túi pin lưu trữ khổng lồ” của hệ thống điện quốc gia.

Bên cạnh việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng bổ sung thêm khối lượng nguồn từ TĐTN. Điều này giúp giảm áp lực đầu tư nguồn phát mới, giảm chi phí huy động các nguồn điện than, khí đắt tiền, đồng thời hỗ trợ hiệu quả cho các nguồn điện gió, điện mặt trời, vốn phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết và có tính bất định cao.

Đáng chú ý, trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, Bộ Công Thương đã đưa vào nhiều dự án do địa phương đề xuất. Ví dụ như Lai Châu có 2 dự án 700 MW, Điện Biên có 2 dự án 800 MW; Sơn La đăng ký thêm 1 dự án 300 MW; Bắc Giang có 2 dự án 600 MW; Thanh Hóa có 2 dự án 126,5 MW; Hà Tĩnh có 2 dự án 704,5 MW; Quảng Trị có 1 dự án thực hiện 2 giai đoạn với 1.446 MW; Đà Nẵng có 1 dự án 595 MW; Quảng Nam, Quảng Ngãi mỗi địa phương đăng ký 1 dự án cùng 300 MW; Bình Định và Lâm Đồng mỗi địa phương đăng ký 1 dự án có công suất 600 MW.

Bên cạnh yếu tố kỹ thuật, Bộ Công Thương yêu cầu các địa phương cần đánh giá kỹ tính khả thi, thủ tục pháp lý, tác động môi trường, đặc biệt là ảnh hưởng đến dân cư và nguồn nước khi triển khai các dự án tích năng quy mô lớn.

Có thể nói, việc phát triển thủy điện tích năng đang mở ra chương mới cho ngành điện Việt Nam, không chỉ giúp tăng độ linh hoạt và an toàn cho hệ thống điện mà còn tạo nền tảng vững chắc để tích hợp mạnh mẽ hơn các nguồn năng lượng sạch, góp phần thực hiện cam kết chuyển dịch năng lượng và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Đình Dũng

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/den-2035-viet-nam-se-co-hon-10600-mw-thuy-dien-tich-nang-384141.html