Di chúc của Bác Hồ - Ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng Đảng và phát triển đất nước
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tài liệu rất đặc biệt, đã được Đảng ta công bố hai lần: Năm Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (tháng 9-1969) và 20 năm sau (tháng 8-1989).
"Muôn vàn tình thương yêu" Bác gửi lại trong lời
Chúng con đọc nghẹn ngào thấm thía
Tay Bác yếu không còn đều nét chữ
Tim Bác đập vẫn đồng bào đồng chí
Giây cuối cùng Bác vẫn gánh lo toan.
Bác Hồ ơi xin Bác cứ yên tâm!
Lời Bác dặn chúng con xin nguyện ước.
Mỗi giọt lệ thấm xuống dòng Di chúc.
Một lời nguyền vang đến suốt mai sau.1
Theo thông báo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam số 151TB/TƯ ngày 19-8-1969 tại Hà Nội, Di chúc gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm có 10 trang: 3 trang do Người tự tay đánh máy đề ngày 15-5-1965 dưới có chữ ký của Người và chứng thực của đồng chí Lê Duẩn Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam; 6 trang bổ sung do Người viết tay vào năm 1968 và 1 trang do Người viết lại phần đầu của bản Di chúc đề ngày 10-5-1969. Thời gian viết Di chúc khá dài và bổ sung sửa chữa nhiều lần, theo đồng chí Vũ Kỳ: "Trong khoảng thời gian 4 năm, từ 10-5-1965 đến 19-5-1969, Bác đã để cả thảy 28 buổi, phần lớn mỗi buổi 2 giờ rưỡi để viết Di chúc"2 chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy nghĩ rất cẩn trọng, sâu sắc để viết lên tài liệu đặc biệt này.
Bản Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho nhân dân ta; Là viên ngọc quý vô giá trong nền di sản văn hóa Việt Nam, mà như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: "Nói đến bản Di chúc thì trước hết phải nói đến con người viết ra nó... . Đó là một chiến sĩ phấn đấu không mệt mỏi trong 60 năm trời vì những mục tiêu cao quý của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, một nhà hoạt động cách mạng kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, luôn luôn chủ động và nắm bắt thời cơ, nhằm đúng mục tiêu để tiến đến đích. Nguồn gốc của sức mạnh kỳ diệu này là con người Hồ Chí Minh với những phẩm chất cao quý của mình gắn liền với truyền thống đẹp đẽ của dân tộc, với tinh hoa của loài người mà đỉnh cao là học thuyết Mác - Lênin, ánh sáng của thời đại. Nguồn gốc của sức mạnh kỳ diệu này là niềm tin sâu sa vào những khả năng to lớn của dân tộc và con người Việt Nam"3. Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta đã 50 năm, nhưng tư tưởng của Bác, đạo đức cao cả và tình yêu bao la của Người vẫn còn mãi. Trong di sản vô giá mà Người để lại, Di chúc của Bác với nội dung và ý nghĩa lớn lao trở thành văn kiện quan trọng của Đảng ta, là ngọn đèn tỏa sáng để đưa đường cho chúng ta đi phấn đấu cho sự nghiệp phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của con người.
Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, tâm hồn và đạo đức "vô cùng cao đẹp và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ" của một con người "suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân"
Đọc Di chúc của Bác Hồ, trong lòng mỗi chúng ta trào dâng một niềm kính trọng, cảm phục đối với một lãnh tụ có tâm hồn cao đẹp, đạo đức trong sáng và tinh thần cách mạng vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người. Với Hồ Chí Minh, độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân đã trở thành mục đích chính trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và trở thành tư duy và hành động của Người, chính điều đó đã thôi thúc Người quyết chí rời Tổ quốc ra đi tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước vào năm 1911. ở bất kỳ đâu, bất cứ lúc nào và ngay cả lúc giữ chức vụ cao nhất, hay ở đỉnh cao của vinh quang, Người cũng không có ham muốn nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, 24 năm làm chủ tịch nước, Bác thường xuyên về các địa phương làm việc nhưng hầu như không bao giờ báo trước, nhưng đến ngày sinh của mình thì lại dặn trước các địa phương không được tổ chức kỷ niệm, vì thế rất hiếm khi có đón và đưa linh đình, tốn kém. Đến khi sắp từ biệt thế giới này Người vẫn chỉ tự coi mình là một người phục vụ "một người suốt đời một lòng một dạ phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, nên "nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". Người còn dặn dò rất cặn kẽ về việc tổ chức tang lễ giản đơn để khỏi tốn kém tiền của thời giờ của nhân dân. Thi hài Người thì đốt đi, tro được đến đủ 3 miền của Tổ quốc được hòa vào nước non sông núi với thiên nhiên. Trên mỗi quả đồi chôn hộp tro đó, Người đề nghi trồng cây và xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ.
Di chúc khẳng định thắng lợi tất yếu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đồng thời vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự nghiệp phát triển của đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi
Điều kỳ diệu nữa của Di chúc lịch sử là giữa lúc cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ còn đang diễn ra quyết liệt và khó khăn. Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam, chuyển chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ; Tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, leo thang chiến tranh ngày càng cao, quy mô đánh phá ngày càng mở rộng; Biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Trong tình hình đó, bạn bè gần xa đều lo lắng cho Việt Nam, có người không tin Việt Nam có thể giành thắng lợi trong cuộc đụng đầu lịch sử hoàn toàn không cân sức với Mỹ. Nhưng Di chúc của Người đã toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, luôn vững tin vào tương lai tất thắng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ Di chúc của Người đã khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn", "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
Với tầm nhìn của nhà tiên tri, Bác hướng cả dân tộc đến một tương lai tươi sáng. Trong Di chúc, Bác căn dặn chúng ta những điều cụ thể, công việc cần làm, những điều cần phải tránh để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, phát triển đất nước về mọi mặt. Đó chính là việc phải xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, phát triển công tác vệ sinh, y tế, giáo dục, củng cố quốc phòng... Người đã sớm chỉ ra tầm quan trọng của sự nghiệp phục hưng và phát triển đất nước, một cuộc chiến đấu mới đang mở ra phía trước: "Đây là công việc rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang". Đó là một "cuộc chiến đấu khổng lồ" để chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi.
Di chúc của Bác là sự chăm lo của Bác đến sứ mệnh lịch sử của Đảng
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Người luôn tự hào về Đảng, Người nói "Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại". Điều này, một lần nữa lại được Bác khẳng định trong Di chúc: "nhờ Đảng ta đã đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác"
Để Đảng làm tròn sứ mệnh lịch sử đối với đất nước và dân tộc, Người thường xuyên chăm lo đến việc xây dựng Đảng, giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Công việc trong Di chúc của Bác "Trước hết nói về Đảng". Trong đó, việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng Người viết: "làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trọn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi". Đó chính là những định hướng cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử: khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, không để rơi vào tình trạng dao đông, bi quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi Đảng cầm quyền, đảng viên rất dễ đánh mất mình, ngày hôm qua vĩ đại, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến nếu họ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Tiếp theo, Người nhấn mạnh phải chú ý phát huy các yếu tố chính trị-tinh thần đã góp phần đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam: đó là sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, "thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình", "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Phải chăng Bác muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng "Tình yêu thương lẫn nhau" là điều quan trọng hàng đầu để đảm bảo đoàn kết và bao trùm lên tất cả trong các mối quan hệ giữa người với người.
Đặc biệt Di chúc nhấn mạnh vai trò đạo đức cách mạng. Vì "Đảng ta là Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây chính là đức quang minh của người làm quan. Quan quang minh thì dân hạnh phúc, quan tham báo hiệu sự suy vong. Người xưa đã dạy: Tôn tộc đại quy; Tôn lộc đại nguy; Tôn tài đại thịnh; Tôn nịnh đại suy. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là gốc của con người. Con người trong đó đặc biệt là người cán bộ, đảng viên có gốc ấy thì người vững, nếu gốc ấy mục ruỗng tất con người sẽ đổ.
Nếu chỉnh đốn Đảng là việc phải làm trước tiên đối với Đảng, thì công việc đối với con người là công việc đầu tiên mà Đảng phải quan tâm. Di chúc của Người đã nêu rõ: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Công việc đối với con người là phần Bác viết dài nhất trong Di chúc Người đã để ra những chính sách cụ thể đối với từng đối tượng: trước hết là với cán bộ, chiến sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong, với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ).... Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng để lại những vết thương phải hàn gắn, những hậu quả phải giải quyết, ở đây công việc đối với con người đòi hỏi Đảng phải có những chủ trương, chính sách kịp thời. Đó là thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc ta, ngay đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người cũng nhắc nhở Nhà nước ta phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở thành những người lao động lương thiện.
Một trong những sự quan tâm sâu sắc trong Di chúc của Người mang tầm chiến lược đó chính là hướng mọi thời đại phải thực sự lo cho tương lai nước nhà ngay từ hôm nay bằng sự nghiêp chăm lo giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người đề nghị Đảng, Chính phủ cần lựa chọn những người ưu tú trong số những chiến sĩ trẻ tuổi và thanh niên xung phong, cử họ đi học để đào tạo họ thành "đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở nước ta" và để họ có thể làm tròn sứ mạng của "người chủ tương lai của đất nước". Bác căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế vừa "hồng" vừa "chuyên".
Di chúc Bác Hồ thể hiện tình cảm quốc tế trong sáng
Là một người suốt đời "Hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân", ngoài nhiệm vụ với Tổ quốc với nhân dân mình, Người còn là một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc. Người chính là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự đoàn kết, sự ủng hộ giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp năm châu. Người cũng luôn giáo dục cho nhân dân ta càng yêu tự do, độc lập của dân tộc mình thì càng phải tôn trọng độc lập, tự do của các dân tộc khác, ủng hộ mọi phong trào tiến bộ, bảo vệ phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc, giữa các tổ chức và những người tiến bộ, Người mong rằng: "Đảng ta sẽ ra sức hoạt động: góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"
Từ biệt thế giới này Người gửi lại điều mong ước cuối cùng là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Nhìn lại chặng đường gần 85 năm qua, đi cùng dân tộc, định hướng đi cho cả dân tộc, đường lối, chủ trương của Đảng cơ bản đúng đắn, được toàn dân thừa nhận. Tất nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, có khi Đảng ta cũng không tránh khỏi sai lầm khuyết điểm, thậm chí nghiêm trọng. Nhưng, với lý tưởng cách mạng, tất cả vì Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta đã nhận ra khuyết điểm sai lầm và kiên quyết sửa chữa. Một quan điểm, một lập trường, một thái độ như thế chỉ có thể có được ở một đảng chân chính, nên được nhân dân đồng tình, cảm thông, sẻ chia.
Qua thử thách và những cuộc đổi đời thật sự, nhân dân ta vẫn chờ đợi, trông mong vào sự dẫn dắt của Đảng trên con đường tiến lên của dân tộc.
Bằng những gì Đảng của giai cấp cần lao, Đảng của dân tộc đã đem lại cho dân tộc, nhân dân ta vững tin hơn về những thứ mình đã có và Đảng đang cùng dân tộc phấn đấu. Bằng trải nghiệm của lịch sử dân tộc, dân trí cao hơn để mở tầm nhìn ra thế giới, đảng viên ta, nhân dân ta không dễ để đánh mất mình trước những thứ mơ hồ "giả thiết", "nếu như" và cả những thứ bánh vẽ xa vời, "những miền đất hứa".
Theo Di chúc của Bác, "trước hết nói về Đảng", các thế hệ lãnh đạo, các học trò, cháu con của Bác, đã luôn luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng. Cùng với các trụ cột phát triển kinh tế, văn hóa -xã hội, công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Cùng trong tháng ấy, ngày 29-9-1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị về đợt sinh hoạt chính trị "Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch". Ngày 6-3-1970, Bộ Chính trị ra tiếp Nghị quyết về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên Lớp Hồ Chí Minh. Ngay từ ngày ấy, Trung ương đã chỉ rõ: "Toàn Đảng cần nhận rõ việc xây dựng, củng cố và phát triển đảng là một nhiệm vụ cơ bản hàng đầu có tầm quan trọng quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng".
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, các thế hệ lãnh đạo trong Bộ Chính trị Đảng ta và Ban Chấp hành Trung ương càng đặc biệt chăm lo cho công tác này, mong muốn toàn Đảng ta phấn đấu vươn lên ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Một loạt nội dung cốt lõi của công tác xây dựng Đảng được các Đại hội của Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ra nghị quyết, tập trung đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ then chốt này, coi đó là nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong hàng loạt các nghị quyết Đại hội, Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị ở thời kỳ đổi mới, nổi bật là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần hai) Khóa VIII, tháng 2-1999: "Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng" và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Khóa XI, tháng 12-2011: "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Hai nghị quyết này thể hiện tập trung cao nhất trí tuệ, công sức Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan tham mưu của Đảng. Sau hai hội nghị, Bộ Chính trị ngày ấy và hiện nay đã quyết định mở các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng. Đặc biệt, việc học tập và làm theo tư tưởng, dạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đang được kiên trì và đẩy mạnh trong toàn xã hội.
Nhưng, một điều day dứt đặt ra cho toàn Đảng ta là vì sao những cố gắng ấy, sự tập trung cao độ ấy mà công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mới chỉ đạt được một số kết quả, còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục? Đây không phải chỉ là câu hỏi đặt ra cho Đảng, mà còn là những điều bức xúc trong dân.
Chặng đường 50 năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã thực hiện được rất nhiều điều Bác Hồ căn dặn. Đó là niềm tự hào, cổ vũ chúng ta. Nhưng, còn những điều chưa làm được trong Di chúc, nhất là "nói về Đảng", đang đòi hỏi toàn Đảng ta sự hợp sức, chung lòng, đòi hỏi rất nhiều ở trách nhiệm mỗi đảng viên chúng ta.
50 năm qua thực hiện Di chúc của Bác, để hoàn thành trọn vẹn hoài bão lớn nhất của Người là Tổ quốc được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước cả nước đồng lòng: "Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào"4. Cho đến nay, với sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu đó là: Từ một đất nước bao đời nghèo đói thiếu ăn, giờ đây Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới; Con đường huyền thoại Trường Sơn nay đã là con đường bằng phẳng, con đường huyết mạch của đất nước, con đường làm giàu của đất nước Việt Nam mang tên Bác kính yêu; Việt Nam đã là một thành viên của Liên hiêp quốc – một tổ chức lớn nhất thế giới; Là một thành viên của hòa bình, hợp tác, phát triển khu vực ASEAN; Là một nước trong khối WTO để đi vào sân chơi chung với nền kinh tế thế giới; Góp phần công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC.
Toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 – 2010) để đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, một nước Việt Nam "giàu mạnh", là điểm đến, điểm hẹn của thế giới.
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ, đây là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cùng nhau ôn lại công lao trời biển của Người. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta "thành thật" tự kiểm điểm lại việc thực hiện di huấn của Người với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật", "thật sự gương mẫu" và "có tinh thần thương yêu đồng chí lẫn nhau"... để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường Bác đã chọn, tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng Bác đã chỉ ra. Đặc biệt là phải quyết tâm sửa chữa những sai lầm khuyết điểm đã làm cản trở sự phát triển của đất nước, làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo và niềm tin của Đảng trong nhân dân. Quyết tâm hướng tới một nước Việt Nam thống nhất giàu mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh./.
ThS.Trần Thị Thắm
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Chú thích:
(1) Vũ Quần Phương, Bài thơ Thấm trong Di chúc, tháng 12.1969.
(2) Vũ Kỳ: Tưởng nhớ Bác Hồ viết Di chúc lịch sử, Tạp chí Văn hóa-Nghệ thuật. Số 8 -1999. Tr 12.
(3) Phạm Văn Đồng: Bản Di chúc bất hủ sáng ngời tính thời sự, Báo Nhân dân 19/5/1997.
(4): Lê Duẩn: Điếu văn Hồ Chủ tịch, 09/9/1969.