'Đi tắt, đón đầu' bắt kịp nền giáo dục tiên tiến

Một trong những nhiệm vụ đặt ra cho năm học 2025 - 2026 là xây dựng Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong GD-ĐT.

Một lớp học thông minh của Trường Tiểu học đô thị Sài Đồng (Phúc Lợi, Hà Nội). Ảnh: NVCC

Một lớp học thông minh của Trường Tiểu học đô thị Sài Đồng (Phúc Lợi, Hà Nội). Ảnh: NVCC

Các chuyên gia kỳ vọng, Chiến lược này sẽ giúp giáo dục Việt Nam “đi tắt, đón đầu”, bắt kịp các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Xu hướng tất yếu trong giáo dục

Theo ông Nguyễn Sỹ Nam - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Chuyển giao công nghệ số (Viện Nghiên cứu Thiết kế Trường học, Bộ GD&ĐT), trong bối cảnh chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp 4.0, AI trở thành xu hướng công nghệ tất yếu trong giáo dục. Bộ GD&ĐT khẳng định, AI sẽ mở rộng tiếp cận tri thức và nâng cao chất lượng giảng dạy, đồng thời cần có chiến lược rõ ràng để “hiểu và sử dụng AI” trở thành năng lực cốt lõi của công dân thế kỷ 21.

“Chiến lược này giúp ngành Giáo dục chủ động ứng dụng công nghệ, đổi mới phương pháp dạy - học, tạo nền tảng cho giáo dục hiện đại và bền vững. Vì vậy, xây dựng Chiến lược ứng dụng AI trong GD&ĐT năm học 2025 - 2026 là cần thiết, vừa đáp ứng định hướng quốc gia trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ”, ông Nguyễn Sỹ Nam khẳng định.

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, việc ứng dụng AI không chỉ là xu thế, mà còn là đòi hỏi tất yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. PGS.TS Tưởng Duy Hải - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cố vấn cao cấp Chương trình giáo dục STEM AI Lab của Learn to Leap nhìn nhận, Bộ GD&ĐT đã ban hành Khung năng lực số, trong đó có năng lực ứng dụng AI cho học sinh từ lớp 1 đến 12.

Đây là bước đi mang tính đột phá, giúp người học không chỉ biết sử dụng công nghệ mà còn hiểu, vận dụng và sáng tạo cùng AI. Chiến lược này sẽ giúp giáo dục Việt Nam “đi tắt, đón đầu”, bắt kịp các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Tuy nhiên, PGS.TS Tưởng Duy Hải nhận định, có 3 thách thức lớn: Thứ nhất, đối với giáo viên: Nhiều thầy cô, đặc biệt ở cấp mầm non và tiểu học khó có thời gian cập nhật công nghệ mới. Do đó, giải pháp đặt ra là “cầm tay chỉ việc”, học qua đồng nghiệp, thực hành với sự hỗ trợ của chuyên gia.

Thứ hai, về cơ sở vật chất. AI đòi hỏi thiết bị đủ mạnh và Internet ổn định. Do đó, cần chính sách ưu tiên trang bị hạ tầng công nghệ, đặc biệt cho những trường còn khó khăn. Thứ ba, về chương trình giáo dục, hiện chưa có nhiều chương trình AI gắn chặt với chương trình phổ thông. Vì thế, cần xây dựng bộ chương trình phù hợp từng cấp học, để giáo viên không quá tải, học sinh thì phát triển năng lực AI dựa trên kiến thức môn học đã có.

Từ phân tích nêu trên, PGS.TS Tưởng Duy Hải cho rằng, xây dựng Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong GD&ĐT cần tập trung vào ba vấn đề trọng tâm. Thứ nhất, nâng cao nhận thức và năng lực AI cho giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên bằng phương pháp học đi đôi với hành, đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn công việc. Việc bồi dưỡng cần song song với chuyển đổi số để giáo viên có thể ứng dụng ngay vào giảng dạy và quản lý.

Thứ hai, Bảo đảm thiết bị học tập cá nhân (máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh) kết nối thông suốt với hệ thống LMS của nhà trường, giúp học sinh có môi trường học tập số thường xuyên và liên tục.

Thứ ba, xây dựng chương trình giáo dục ứng dụng AI phù hợp. Theo đó, có thể tích hợp STEM/STEAM vào các môn học trong chương trình phổ thông. Qua đó, để học sinh vừa nắm kiến thức cơ bản vừa biết vận dụng AI giải quyết vấn đề thực tiễn, làm quen với nghiên cứu khoa học.

 Cán bộ, giáo viên Trường THPT Quang Trung - Đống Đa (Hà Nội) tập huấn ứng dụng AI và thiết bị công nghệ để thực hiện Chương trình GDPT 2018. Ảnh: NTCC

Cán bộ, giáo viên Trường THPT Quang Trung - Đống Đa (Hà Nội) tập huấn ứng dụng AI và thiết bị công nghệ để thực hiện Chương trình GDPT 2018. Ảnh: NTCC

Giảm khoảng cách vùng miền

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Sỹ Nam nhấn mạnh, khi xây dựng Chiến lược trên, cần tập trung vào những nội dung liên quan đến chính sách - công nghệ - con người - văn hóa của giáo dục.

Muốn vậy, cần hoàn thiện thể chế, chính sách như: Xây dựng khung hướng dẫn chung cho việc ứng dụng AI trong giáo dục; quy định rõ trách nhiệm và quy tắc xử lý khi sử dụng AI trong trường học. Phát triển khung năng lực và tiêu chí đánh giá AI cho người học và nhà giáo.

Đề cập đến phát triển năng lực con người, ông Nguyễn Sỹ Nam gợi mở, có thể tích hợp nội dung AI vào Chương trình GDPT 2018, đại học và giáo dục nghề nghiệp theo lộ trình phù hợp từng cấp học. Cập nhật chương trình đào tạo sư phạm để giáo viên được trang bị kiến thức cơ bản về AI trước khi bước vào nghề.

Về xây dựng hệ sinh thái công nghệ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Chuyển giao công nghệ số - khuyến nghị, nên lựa chọn và phổ biến các công cụ AI phù hợp cho hoạt động giảng dạy - học tập như: Trợ giảng ảo, chatbot hỗ trợ, hệ thống đánh giá năng lực tự động…

Đồng thời, xây dựng nền tảng dữ liệu mở về giáo dục, cho phép ứng dụng AI thực hiện phân tích, dự báo và hỗ trợ hoạch định chính sách. Đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, đảm bảo đường truyền Internet, thiết bị tại trường học đủ tốt để áp dụng các công nghệ mới.

Đề cập đến chính sách hợp tác trong và ngoài nước, ông Nguyễn Sỹ Nam nhấn mạnh, cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, trường đại học, doanh nghiệp trong và ngoài nước để nghiên cứu, phát triển công nghệ giáo dục AI. Đẩy mạnh liên kết giữa các trường đại học và ngành công nghiệp để đào tạo nhân lực AI chất lượng cao. Cùng đó, cần triển khai AI gắn với bản sắc văn hóa và mục tiêu giáo dục của nước nhà.

“Đặc biệt, Chiến lược cần chú trọng giáo dục trách nhiệm và đạo đức số như: Quyền riêng tư, an toàn mạng. Lộ trình thử nghiệm áp dụng nên cẩn trọng, nghiên cứu kỹ trước khi triển khai rộng rãi ở các cấp học, đặc biệt với cấp phổ thông”, ông Nguyễn Sỹ Nam nêu quan điểm.

Giữa các vùng miền như thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo còn khoảng cách số. Do vậy, PGS.TS Đỗ Văn Hùng - Trưởng khoa Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, việc triển khai cần có lộ trình từng bước và cần chính sách hỗ trợ cho các vùng khó khăn như: Đầu tư hạ tầng công nghệ, thiết bị giảng dạy, học tập của giáo viên, học sinh, nền tảng học tập, học liệu số…

Qua đó, đảm bảo điều kiện cơ bản cho việc giảng day và học tập để đạt được yêu cầu tối thiểu về trình độ năng lực số của người học. “Khi chúng ta triển khai thành công năng lực số, sẽ góp phần giảm khoảng cách số giữa các vùng miền trên cả nước”, PGS.TS Đỗ Văn Hùng nhận định.

Theo ông Nguyễn Sỹ Nam, có thể tổ chức các cuộc thi dành cho học sinh, sinh viên về AI. Cùng với đó, có thể tổ chức các khóa tập huấn chuyên sâu cho giáo viên, cán bộ quản lý nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng sử dụng công nghệ mới.

Minh Phong

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/di-tat-don-dau-bat-kip-nen-giao-duc-tien-tien-post746446.html