Đình Đại La - Nơi lưu giữ hồn thiêng văn hóa tâm linh cộng đồng

Giữa vùng đất Hòa Vang hiền hòa của thành phố Đà Nẵng, có một ngôi đình nhỏ mang tên Đại La, âm thầm đứng vững qua bao biến thiên lịch sử, là nơi lắng đọng hồn thiêng sông núi và lưu giữ những giá trị tâm linh, văn hóa cộng đồng đặc sắc của người Việt. Không chỉ là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, đình Đại La còn là biểu tượng cho cội nguồn, sự đoàn kết và gắn bó keo sơn của cư dân bản địa từ bao đời.

Đình Đại La được công nhận là Di tích cấp thành phố

Đình Đại La được công nhận là Di tích cấp thành phố

Từ trung tâm TP Đà Nẵng, theo tuyến đường Hoàng Văn Thái ngược về hướng Tây Bắc, du khách sẽ đặt chân đến xã Hòa Sơn (huyện Hòa Vang). Trong không gian yên bình, thơm mùi lúa chín và gió núi, ngôi đình Đại La hiện ra giản dị nhưng tĩnh tại, như thể bao năm vẫn giữ nguyên vẻ trầm mặc của một chứng nhân thời gian.

Không nguy nga, tráng lệ như nhiều ngôi đình nổi tiếng khác ở miền Trung, đình Đại La hấp dẫn bởi vẻ đẹp mộc mạc, đậm chất làng quê và câu chuyện đầy cảm động về sự hình thành, phát triển của một cộng đồng cư dân gắn bó với núi rừng, đồng ruộng và tín ngưỡng bản địa.

Theo tư liệu lưu truyền trong dân gian, khoảng thế kỷ XVII, vùng đất Đại La còn là nơi hoang sơ, rừng rậm bao phủ, địa hình chủ yếu là đồi núi xen kẽ những ô trũng nhỏ thuận tiện canh tác. Những cư dân đầu tiên - chỉ vỏn vẹn 17 hộ dân đã đến đây khai hoang, dựng nhà, làm ruộng dưới chân núi, đồng thời sinh sống nhờ vào nghề khai thác lâm sản.

Đến thế kỷ XVIII, số hộ dân tăng lên khoảng 50. Đó cũng là thời điểm hình thành làng Đại La với sự góp công lớn của những bậc tiền nhân như ông Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Phi Dõng, Nguyễn Văn Huy và Nguyễn Văn Hay. Họ không chỉ tổ chức cuộc sống cho cư dân mà còn đặt tên cho làng, định danh hành chính là xã Trung, tổng An Châu Thượng, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn - khởi đầu cho hành trình dựng xây mảnh đất trù phú này.

Đến nay, con cháu họ Nguyễn đã trải qua 18 đời, còn dòng họ Trần đảm nhiệm việc thờ tự tại đình làng từ thời Minh Mạng thứ 2 (1821) đến triều Khải Định thứ 9 (1924). Chính sự tiếp nối nhiều thế hệ đã làm nên một cộng đồng làng gắn bó chặt chẽ và giữ gìn truyền thống sâu sắc.

Đình Đại La được làm theo kiểu 3 gian 2 chái, nằm yên bình bên đường lên Bà Nà Hills

Đình Đại La được làm theo kiểu 3 gian 2 chái, nằm yên bình bên đường lên Bà Nà Hills

Ngôi đình đầu tiên được dựng vào khoảng thời vua Quang Trung (1788 - 1792), tại gò Gia, bằng vật liệu thô sơ như tranh tre. Khi ngôi đình bị hư hỏng, dân làng đã dựng lại vào năm Nhâm Tuất (1802) tại địa điểm cấm gò Giá. Tuy nhiên, đến năm Tự Đức thứ 18 (1865), đình tiếp tục bị đốt phá do loạn lạc nên người dân lại dời đình về vị trí hiện nay - nơi được cho là phong thủy thuận lợi, thế đất linh thiêng, "tọa sơn hướng thủy".

Dù trải qua nhiều biến cố lịch sử, chiến tranh và thiên tai, người dân Đại La vẫn quyết tâm giữ gìn ngôi đình như giữ một phần máu thịt của làng. Mỗi lần dựng lại đình không chỉ đơn thuần là phục dựng kiến trúc, mà còn là hành động khẳng định lòng trung nghĩa, tình đoàn kết và ý thức bảo tồn văn hóa tổ tiên.

Đình Đại La được xây dựng theo kiểu ba gian hai chái, một kiểu kiến trúc quen thuộc trong đình làng truyền thống Việt Nam. Toàn bộ ngôi đình có diện tích khoảng 69m², tường xây đá chẻ dày 0,32m. Bên trong là sáu hàng cột gỗ mít chắc chắn, chia đều, tạo thành kết cấu hài hòa, vững chãi. Mái đình được lợp ngói âm dương – loại ngói đặc trưng cho sự giao hòa âm dương trong triết lý phương Đông.

Điểm đặc sắc là hệ thống trang trí trên đình với hình ảnh “lưỡng long triều nguyệt” - hai con rồng chầu mặt nguyệt trên bờ nóc, tượng trưng cho quyền uy và sự thiêng liêng. Bốn đầu bờ dải chạm trổ hình phụng và lân, biểu trưng cho điềm lành, sự bảo hộ của thần linh. Phía trước đình là bức bình phong cao 2,98m, rộng 2,3m, dày 0,56m - không chỉ có giá trị phong thủy mà còn mang tính chất bảo vệ không gian tâm linh bên trong.

Đình làng được xây dựng, di dời trải qua nhiều nơi do chiến tranh cho đến vị trí như hiện tại

Đình làng được xây dựng, di dời trải qua nhiều nơi do chiến tranh cho đến vị trí như hiện tại

Ban thờ chính giữa thờ thành hoàng làng - vị thần bảo hộ cho dân cư. Hai bên là tả ban và hữu ban - nơi đặt bài vị thờ các tiền hiền (người có công lập làng) và hậu hiền (người có công phát triển làng). Chính sự phân tách này thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, kính trên nhường dưới, biết ơn tổ tiên.

Do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai và quá trình di dời, hiện nay đình chỉ còn lưu giữ được 15 sắc phong cổ, một hộp đựng sắc bằng gỗ và một khám thờ - đều là những cổ vật vô cùng quý giá. Các sắc phong có niên đại trải dài từ Minh Mạng thứ 2 (1821) đến Khải Định thứ 9 (1924), thể hiện mối quan hệ giữa đình Đại La và triều đình phong kiến.

Mỗi sắc phong là một chứng tích quan trọng về việc triều đình phong tặng thần linh hay ghi nhận công lao của cộng đồng trong bảo vệ, giữ gìn văn hóa địa phương. Đây không chỉ là bảo vật lịch sử mà còn là nguồn tư liệu phong phú phục vụ nghiên cứu về tín ngưỡng làng xã miền Trung.

Theo ông Phạm Thanh Sinh - Trưởng thôn Đại La, hằng năm, đình tổ chức ba lễ giỗ lớn: Ngày 24/1 Âm lịch: Lễ Vía Bà Chúa Ngọc. Ngày 12/3 Âm lịch: Lễ Cầu an - cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Ngày 12/4 Âm lịch: Lễ giỗ Tiền hiền và giỗ âm linh – tưởng nhớ người lập làng và những linh hồn không có thân nhân thờ phụng.

Các nghi lễ tế tự được nhân dân thôn Đại La gìn giữ qua bao đời

Các nghi lễ tế tự được nhân dân thôn Đại La gìn giữ qua bao đời

Các lễ giỗ được tổ chức trang nghiêm, ấm cúng, với sự tham gia đông đảo của người dân trong thôn. Đây là dịp để mỗi người con làng Đại La, dù đi xa hay ở gần, cũng trở về quây quần bên nhau, dâng nén hương thơm tưởng niệm tổ tiên, đồng thời cùng nhau ôn lại những giá trị truyền thống.

Bên cạnh nghi lễ chính, vào những ngày lễ, đình làng cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hóa - giải trí truyền thống, như: hát bài chòi, kéo co, đẩy gậy, làm bánh truyền thống, nấu chè cúng đình... Những trò chơi dân gian không chỉ mang lại không khí vui tươi mà còn là cầu nối gắn kết cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ với nguồn cội văn hóa quê hương.

Theo Trung tâm Quản lý Di sản Văn hóa TP Đà Nẵng, đình Đại La là một trong những di tích tiêu biểu còn bảo tồn được cả kiến trúc lẫn lễ hội truyền thống. Những hoạt động văn hóa này góp phần giữ gìn bản sắc làng xã trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ.

Các sắc phong được lưu giữ tại đình Đại La mang nhiều ý nghĩa văn hóa lịch sử

Các sắc phong được lưu giữ tại đình Đại La mang nhiều ý nghĩa văn hóa lịch sử

Với những giá trị văn hóa, lịch sử và kiến trúc đặc biệt, đình Đại La đã được UBND TP Đà Nẵng công nhận là Di tích cấp thành phố theo Quyết định số 151/QĐ-UBND ngày 08/01/2007. Đây là sự ghi nhận xứng đáng đối với nỗ lực gìn giữ di sản của cộng đồng dân cư và chính quyền địa phương suốt hàng trăm năm.

Không chỉ là một điểm đến tâm linh, đình Đại La còn là điểm nhấn du lịch văn hóa - lịch sử, nơi có thể tích hợp vào các tour khám phá vùng ngoại ô Đà Nẵng, kết nối với các điểm đến như làng cổ Túy Loan, khu sinh thái Hòa Phú Thành, suối Mơ, Bà Nà...

Thế hệ trẻ làng Đại La học tập, trau dồi để tiếp tục bảo tồn phát triển văn hóa đình làng

Thế hệ trẻ làng Đại La học tập, trau dồi để tiếp tục bảo tồn phát triển văn hóa đình làng

Trong dòng chảy hiện đại hóa, giữa những công trình cao tầng và nhịp sống đô thị hối hả, đình Đại La vẫn giữ một không gian thiêng liêng và yên bình - nơi con người được trở về với bản ngã truyền thống, được kết nối với tổ tiên, với cộng đồng.

Việc gìn giữ, tôn tạo đình Đại La không chỉ là bảo tồn một công trình kiến trúc cổ, mà còn là giữ gìn “hồn cốt làng Việt” - thứ đã nuôi dưỡng tâm hồn, đạo lý và bản sắc dân tộc qua bao đời. Đó là nhiệm vụ không của riêng ai, mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, của những người yêu quý văn hóa dân tộc.

Q. Thân

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/dinh-dai-la-noi-luu-giu-hon-thieng-van-hoa-tam-linh-cong-dong-a29210.html