Định hình không gian công nghiệp TP.HCM mới

Cấu trúc kinh tế đa trụ cột của TP.HCM sau sáp nhập mở ra không gian phát triển rộng lớn cho bất động sản công nghiệp. Mỗi khu vực được định hướng rõ ràng, phù hợp với thế mạnh sẵn có.

“Điểm nghẽn” đất đai trong phát triển khu công nghiệp tại TP.HCM đã được tháo gỡ. Ảnh: Lê Toàn.

“Điểm nghẽn” đất đai trong phát triển khu công nghiệp tại TP.HCM đã được tháo gỡ. Ảnh: Lê Toàn.

Cơ hội tổ chức lại hệ thống sản xuất công nghiệp

Nhớ lại đúng một năm trước, khi nhà đầu tư nước ngoài đến TP.HCM tìm khu công nghiệp quy mô 50 ha nhưng không có đất, bà Cao Thị Phi Vân - Phó giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư TP.HCM cho biết, Trung tâm đã phải dẫn đoàn xuống Long An để “gửi gắm”.

Bây giờ, sau khi sáp nhập Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu vào TP.HCM, bà Vân tự tin “không lắc đầu bất cứ dự án nào”, bởi điểm nghẽn đất đai trong phát triển khu công nghiệp đã được tháo gỡ.

Trên thực tế, không gian và quỹ đất cho phát triển công nghiệp của TP.HCM mới được mở rộng đáng kể sau sáp nhập, tạo dư địa mới cho phát triển công nghiệp quy mô lớn.

Theo đó, TP.HCM hiện có 66 khu chế xuất và khu công nghiệp với tổng diện tích hơn 27.000 ha. Đến năm 2050, dự kiến tăng lên 105 khu với diện tích hơn 49.000 ha, khẳng định vị thế là trung tâm công nghiệp hàng đầu quốc gia.

Ông Phạm Văn Việt - Phó chủ tịch thường trực Hội Dệt - May - Thời trang TP.HCM (AGTEK) nhấn mạnh, việc TP.HCM mới được mở rộng diện tích lên hơn 6.700 km2, tích hợp cả công nghiệp, đô thị và cảng biển: May ở TP.HCM, nhuộm ở Bình Dương, cảng xuất khẩu Cái Mép - Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu... là một cơ hội hiếm có để tái cấu trúc vai trò của Thành phố trong hệ sinh thái sản xuất quốc gia.

Bởi vậy, theo ông Việt, trong chuỗi giá trị công nghiệp, TP.HCM không thể tiếp tục giữ vai trò đơn lẻ như “trung tâm sản xuất cuối chuỗi”, mà cần “chuyển mình” thành trung tâm điều phối chiến lược chuỗi công nghiệp khu vực.

Theo đó, cần thiết lập TP.HCM là trung tâm điều phối chuỗi công nghiệp phía Nam, với 3 trọng trách: Trung tâm thiết kế, sáng tạo, nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghiệp nhẹ có giá trị gia tăng cao (thay vì chỉ sản xuất thô); nút logistics kết nối cảng - đô thị - khu công nghiệp tối ưu vận chuyển và phân phối hàng hóa vùng; xây dựng hệ thống dữ liệu công nghiệp liên vùng, kết nối thông tin sản xuất - vận hành - tiêu thụ, hỗ trợ doanh nghiệp ra quyết định nhanh và chính xác.

Đại diện AGTEK cũng cho biết, ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu 22 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2025, nhưng con số này không nói lên sức cạnh tranh nội tại, bởi hơn 60% giá trị đầu vào vẫn phụ thuộc nhập khẩu.

Nếu TP.HCM muốn đóng vai trò đầu tàu công nghiệp vùng sau sáp nhập thì dệt may phải chuyển từ vai trò gia công giá rẻ sang sản xuất sáng tạo có định hướng, không thể tiếp tục quy hoạch đất công nghiệp dàn trải mà phải quy hoạch theo chuỗi giá trị sợi - dệt - nhuộm - may - thương mại hóa - logistics.

Đồng thời, cần xây dựng “hành lang công nghiệp xanh tích hợp” từ Dĩ An (Bình Dương) đến Nhà Bè (TP.HCM) kết nối với cảng Cái Mép - Vũng Tàu, nối liền toàn bộ chuỗi dệt - nhuộm - may - xuất khẩu.

Trên chuỗi đó, TP.HCM đóng vai trò thiết lập bộ tiêu chuẩn tích hợp vận hành chuỗi công nghiệp liên vùng, gồm môi trường sản xuất, logistics số, dữ liệu chuỗi và kiểm soát rủi ro, nhằm chuyển từ mô hình phát triển phân tán sang hệ sinh thái sản xuất theo chức năng chuyên biệt.

Cùng góc nhìn, TS. Trương Minh Huy Vũ - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM cho rằng, việc tích hợp không gian công nghiệp của 3 địa phương TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu mang lại cơ hội lớn để tổ chức lại hệ thống sản xuất công nghiệp theo hướng chuyên môn hóa, giảm áp lực lên không gian đô thị trung tâm, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả đầu tư hạ tầng.

TP.HCM mới hiện có 66 khu chế xuất và khu công nghiệp với tổng diện tích hơn 27.000 ha. Đến năm 2050, dự kiến tăng lên 105 khu với diện tích hơn 49.000 ha, khẳng định vị thế là trung tâm công nghiệp hàng đầu quốc gia.

Theo đó, TP.HCM (cũ) nên tập trung phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp sinh thái và khu công nghiệp đô thị - dịch vụ gắn với các trung tâm đổi mới sáng tạo như Khu công nghệ cao, Đại học Quốc gia TP.HCM và Trung tâm tài chính quốc tế. Khu vực Bình Dương (cũ) tiếp tục mở rộng mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ tích hợp theo chiều sâu, hướng đến sản xuất thông minh và logistics công nghiệp.

Khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) giữ vai trò hậu cần cảng biển, công nghiệp hóa dầu, năng lượng và logistics xuất khẩu. Mỗi địa phương giữ vai trò riêng, nhưng cùng chia sẻ mục tiêu công nghiệp hóa xanh và bền vững.

Một trong những định hướng quan trọng là phát triển cụm ngành công nghiệp liên kết theo chuỗi giá trị cho TP.HCM mới. Ví dụ, nguyên liệu đầu vào từ cảng Cái Mép - Thị Vải được vận chuyển tới các nhà máy chế biến tại Bình Dương, sau đó đưa về TP.HCM để hoàn thiện sản phẩm hoặc nghiên cứu nâng cao giá trị.

Điều này đòi hỏi quy hoạch không gian phải đi đôi với quy hoạch hạ tầng, bao gồm đường bộ, đường sắt chuyên dùng, trung tâm logistics vùng và các ICD (cảng cạn/cảng khô/cảng nội địa) nội đô.

Cần cải thiện hạ tầng và logistics tích hợp

Thực tế cho thấy, một trong những yếu tố cốt lõi để phát triển công nghiệp vùng hiệu quả và bền vững là đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng kết nối vùng và hạ tầng logistics phục vụ sản xuất.

Sau khi mở rộng không gian hành chính, TP.HCM sẽ trở thành vùng công nghiệp liên thông với hệ thống khu công nghiệp - cảng biển - trung tâm logistics hàng đầu cả nước, do đó cần có một chiến lược đầu tư hạ tầng tổng thể, tích hợp và hiện đại.

Theo TS. Trương Minh Huy Vũ, cần ưu tiên hoàn thiện các tuyến giao thông huyết mạch liên vùng, bao gồm các tuyến đường Vành đai 3, Vành đai 4, cao tốc TP.HCM - Mộc Bài, Biên Hòa - Vũng Tàu, Bến Lức - Long Thành.

Đây là các dự án then chốt kết nối trực tiếp các khu công nghiệp, trung tâm nghiên cứu - phát triển (R&D), cảng biển quốc tế (Cát Lái, Hiệp Phước, Cái Mép - Thị Vải) và các ICD nội vùng. Việc rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa sẽ góp phần giảm chi phí logistics, vốn đang chiếm từ 16-20% giá thành sản phẩm công nghiệp của Việt Nam.

TP.HCM mới cần xây dựng mạng lưới logistics công nghiệp hiện đại, với các trung tâm trung chuyển hàng hóa tại Dĩ An, Thủ Đức, Phú Mỹ… cùng hệ thống ICD - kho ngoại quan, trung tâm phân phối công nghiệp. Các khu công nghiệp mới cần được thiết kế theo mô hình khu công nghiệp tích hợp logistics, có đường sắt, cảng cạn, trạm năng lượng và viễn thông thông minh, phục vụ nhu cầu sản xuất 24/7.

Cùng với đó là đẩy mạnh số hóa và thông minh hóa hạ tầng công nghiệp, bao gồm giám sát môi trường số, lưới điện thông minh, cấp thoát nước tự động hóa, tích hợp dữ liệu chuỗi cung ứng và quản lý vận hành nhà máy từ xa. Đây là điều kiện nền tảng để triển khai mô hình sản xuất công nghiệp 4.0.

“Cốt lõi của chiến lược phát triển công nghiệp hiện đại là nâng cao năng suất lao động, năng lực đổi mới công nghệ và tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế và quá trình chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, TP.HCM mở rộng cần xác định rõ các ngành mũi nhọn về công nghệ cao và xây dựng hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ có khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Vũ nhấn mạnh.

Còn theo ông Phạm Văn Việt, câu chuyện về nhu cầu 90.000 lao động sau sáp nhập đang được đề cập nhiều và thực tế tại các nhà máy cũng cho thấy, dây chuyền số hóa và đơn hàng đã có, nhưng lại thiếu con người phù hợp.

Do đó, cần chuyển đổi mô hình đào tạo nghề sang cơ chế 3 bên: Doanh nghiệp đặt hàng - trường nghề triển khai - chính quyền đồng tài trợ để rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết đào tạo và thực tế sản xuất. Ngoài ra, TP.HCM cần đầu tư trung tâm kỹ năng công nghiệp xanh và số hóa, đặt tại ranh giới vùng chuyển tiếp giữa 3 khu vực - nơi đang tập trung chuyển dịch lao động mạnh nhất.

Trọng Tín

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/dinh-hinh-khong-gian-cong-nghiep-tphcm-moi-post373842.html