Đoàn kết tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết tôn giáo là yêu cầu quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển của đất nước. Quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về đoàn kết tôn giáo một lần nữa thể hiện điều này.
Văn kiện Đại hội chủ trương “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr. 171). Đoàn kết tôn giáo nằm trong tổng thể các nội dung nhằm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quan điểm của Đảng về đoàn kết tôn giáo đã quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước.
Quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về đoàn kết tôn giáo thể hiện sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Người luôn khẳng định, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công. Vấn đề đoàn kết tôn giáo, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3.9.1945, Hồ Chí Minh đã khẳng định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là “thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 4). Trong điều kiện nhà nước dân chủ cộng hòa non trẻ và tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Chủ tịch đã giải quyết tế nhị, mềm dẻo vấn đề tôn giáo.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XIII khẳng định “động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Nhận thức này là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu, vận dụng ngày một đúng đắn, sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trật tự thế giới với xu hướng đa cực, đa phương, đa dạng hóa quan hệ. Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống khu vực và quốc tế. Nước ta đã 2 lần tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh APEC vào năm 2006 và 2017, tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019, đón nhiều nguyên thủ quốc gia...
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, các thế lực thù địch cũng có thêm nhiều điều kiện để đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo luôn là những vấn đề dễ bị thế lực thiếu thân thiện lợi dụng, kích động.
Trong bối cảnh đó, nếu không chú trọng đúng mức đến việc khơi dậy, phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trong đó có đoàn kết tôn giáo là không phù hợp, thậm chí tác động tiêu cực đến hiệu quả của sự nghiệp xây dựng kết hợp với bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII đã chỉ ra hạn chế trong thực hiện vấn đề này như sau: “...sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ…
Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Trên cơ sở đánh giá kết quả công tác của nhiệm kỳ trước, nắm bắt những đặc điểm mới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nhất quán của việc tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó định hướng đúng đắn cho việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, thực hiện đoàn kết và phát huy nguồn lực tôn giáo.
Quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về đoàn kết tôn giáo đã vận dụng một trong những cơ sở thực hiện đại đoàn kết dân tộc, đó là điểm tương đồng giữa tôn giáo với cách mạng, giữa lý tưởng xã hội chủ nghĩa với lý tưởng tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sinh thời, Người chỉ rõ: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ bi của đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ.
Đồng bào ta, lương cũng như giáo, đoàn kết kháng chiến, ủng hộ chính sách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng tức là làm đúng lời dạy của Chúa Giêsu, tức là thật thà tôn kính Chúa Giêsu” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 8). Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng đồng bào các tôn giáo đi cùng với cả dân tộc trên một con đường. Con đường đó là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tinh thần của Chúa, của Phật và cũng là cái đích mà lý tưởng XHCN hướng tới - suy cho cùng là giải quyết vấn đề con người.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đất nước tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều bộ phận, tầng lớp dân cư có nhu cầu, nguyện vọng, đặc điểm đời sống, tâm lý, theo những tín ngưỡng, tôn giáo, thuộc thành phần những dân tộc khác nhau.
Vì vậy, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Đảng luôn chú trọng tìm điểm tương đồng, tôn trọng những khác biệt không trái với lợi ích dân tộc, chủ trương giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích phù hợp, có thế mới huy động được sức mạnh của mọi người dân.
Thời kỳ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đất nước, cơ sở để thực hiện đoàn kết tôn giáo là vì lợi ích quốc gia, vì sự trường tồn của dân tộc, đánh đổ đế quốc, thực dân để giành độc lập dân tộc. Hiện nay, quan điểm ấy vẫn còn nguyên giá trị nhưng được phát triển bằng nhận thức về điểm tương đồng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII của Đảng chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước” qua đó góp phần “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).
Quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về đoàn kết tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp xây dựng đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải thực hiện khoan dung đối với các tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh, khoan dung tôn giáo biểu hiện rõ nhất ở việc triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo.
Trong buổi lễ ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3.3.1951, Người khẳng định: “…về vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 50). Việc Hồ Chí Minh tôn trọng, đánh giá cao những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo và nhân cách của những người sáng lập tôn giáo cũng là một biểu hiện của sự khoan dung tôn giáo.
Trong cuốn sách “Đối diện với Hồ Chí Minh”, Sainteny (đại diện Chính phủ Pháp ký kết Hiệp định sơ bộ 6.3.1946) nhận xét: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế giễu đối với một tôn giáo bất kỳ nào”.
Đại hội XIII không chỉ chủ trương “kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” mà còn phải làm tốt công tác “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Mặt khác, “xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các điểm nóng. Thực tế từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay chứng minh rằng, công tác tôn giáo luôn được chính quyền các cấp quan tâm. Đồng bào có đạo đã và đang có những đóng góp vô cùng to lớn trong sự phát triển chung của đất nước.