Doanh nghiệp lạc quan khi bước vào năm 2025
Cùng với sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp đã có những nhận định lạc quan về triển vọng sản xuất, kinh doanh trong năm 2025.
Doanh nghiệp nhận định hoạt động sản xuất, kinh doanh tốt hơn
Theo kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê, 77,3% doanh nghiệp nhận định hoạt động sản xuất, kinh doanh quý IV-2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý III-2024 (28,6% tốt hơn và 48,7% giữ ổn định). Chỉ có 22,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh khó khăn hơn. So với quý III-2024, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá thuận lợi hơn tăng 5,1%, trong khi tỷ lệ đánh giá khó khăn hơn giảm 5,5%.
Tính theo ngành kinh tế, doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo lạc quan nhất, với 79,8% doanh nghiệp đánh giá tình hình tốt hơn và giữ ổn định (38% tốt lên và 41,8% giữ ổn định). Chỉ 20,2% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn.
Ngành thương mại, dịch vụ cũng có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá hoạt động tốt hơn khá cao, hơn 77%. Chỉ 22,4% doanh nghiệp đánh giá hoạt động khó khăn hơn.
Ngành xây dựng có 73,7% doanh nghiệp đánh giá hoạt động tốt hơn và giữ ổn định, trong khi 26,3% đánh giá hoạt động khó khăn hơn.
Tính theo loại hình kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 78,5% doanh nghiệp đánh giá hoạt động tốt hơn và giữ ổn định (30,7% tốt hơn và 47,8% giữ ổn định). Chỉ 22,7% đánh giá hoạt động khó khăn hơn.
Trong khi đó, 77,8% doanh nghiệp nhà nước đánh giá hoạt động tốt hơn và giữ ổn định và 22,2% đánh giá hoạt động khó khăn hơn. Với doanh nghiệp ngoài nhà nước, tỷ lệ tương ứng là 77% và 23%.
Gặp khó ở cả đầu vào và đầu ra
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ; việc tập trung thực hiện giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các bộ, ngành, địa phương là những thuận lợi lớn, mang lại sự lạc quan cho cộng đồng doanh nghiệp.
Đặc biệt, việc kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đã giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng vươn lên và phát triển; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp lớn hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo ra chuỗi giá trị nội địa và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước.
"Các chính sách pháp luật được thực thi kịp thời và hiệu quả là điều kiện để doanh nghiệp thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, chỉ có 2,1% doanh nghiệp gặp khó khăn do các chính sách pháp luật và 1,7% doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn do thiếu năng lượng", báo cáo ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, kết quả khảo sát cũng cho thấy, phần lớn doanh nghiệp gặp khó ở cả đầu vào và đầu ra. Về đầu ra, “nhu cầu thị trường trong nước thấp” và “tính cạnh tranh của hàng trong nước cao” là hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, với tỷ lệ lựa chọn lần lượt là 51,9% và 44,3% (tỷ lệ này ở quý II-2024 là 53,8% và 43,6%; ở quý III-2024 là 51,9% và 42,1%).
Riêng đối với doanh nghiệp xây dựng, có 44,7% doanh nghiệp gặp khó khăn do “không có hợp đồng xây dựng mới”.
Phân tích theo yếu tố đầu vào cho sản xuất, kinh doanh, báo cáo khảo sát cho hay, giá nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí vận tải kho bãi, chi phí các dịch vụ tăng cao là khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp, với 25,8% doanh nghiệp lựa chọn (tăng 1,1% so với quý III-2024).
Vốn cho sản xuất, kinh doanh là khó khăn của 18,5% doanh nghiệp (giảm 0,6% so với quý III-2024); lãi suất vay vốn vẫn còn cao là vướng mắc của 17,2% doanh nghiệp (giảm 0,8% so với quý III-2024).
Về thủ tục hành chính, 14,4% doanh nghiệp cho rằng thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, quy trình đấu thầu còn phức tạp, chồng chéo làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp (tỷ lệ này tăng 1,2% so với quý III-2024).
Về lao động, 10,4% doanh nghiệp không tuyển dụng được lao động đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Đánh giá về năng lực nội tại của doanh nghiệp, 6,8% (tăng 0,4% so với quý III-2024) nhận định, doanh nghiệp gặp khó khăn do năng lực cạnh tranh của còn hạn chế, thiết bị, công nghệ lạc hậu.
Phân tích theo ngành kinh tế, đối với công nghiệp chế biến, chế tạo, hai yếu tố “nhu cầu thị trường trong nước thấp” và “tính cạnh tranh của hàng trong nước cao” ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động của doanh nghiệp, với tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn lần lượt là 53% và 51,2%.
Bên cạnh đó, 30,3% doanh nghiệp gặp khó khăn do nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 25,8% doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính; 20,5% gặp khó khăn do lãi suất vay vốn vẫn còn cao; 20,8% doanh nghiệp gặp khó khăn do không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp; 17,7% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; 15,8% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiết bị, công nghệ lạc lậu; 7,5% doanh nghiệp bị ảnh hưởng do chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong khi chỉ có 3% doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay và 1,6% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu năng lượng.
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhóm ngành dệt, may, da giầy gặp khó khăn lớn nhất là đơn hàng xuất khẩu, nhu cầu thị trường trong nước thấp và thiếu lao động có tay nghề. Có tới 52,4% doanh nghiệp sản xuất trang phục; 50,8% doanh nghiệp sản xuất da và các sản phẩm có liên quan và 43,6% doanh nghiệp dệt gặp khó khăn do nhu cầu thị trường quốc tế thấp.
Với nhóm ngành sản xuất, chế biến thực phẩm, đồ uống, có tới 37,3% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu nguồn nguyên, vật liệu đầu vào, 27,3% doanh nghiệp gặp khó khăn do chính sách pháp luật của Nhà nước.
Với nhóm ngành điện, điện tử, mặc dù phục hồi rất tích cực trong quý IV-2024, song khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vẫn do nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế thấp, thiếu hụt lao động có kỹ năng, khó khăn về vốn và tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao.
Có tới 53,8% doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học và 42,8% doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện gặp khó khăn do nhu cầu thị trường quốc tế thấp.
Với nhóm ngành sản xuất ô tô, xe máy, có tới 60,9% doanh nghiệp sản xuất xe máy và 50,5% doanh nghiệp sản xuất ô tô gặp khó khăn do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 55,5% doanh nghiệp sản xuất xe máy và 40,8% doanh nghiệp sản xuất ô tô gặp khó khăn do tính cạnh tranh của hàng trong nước cao.
Hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động của doanh nghiệp xây dựng là “giá nguyên vật liệu tăng cao” với 45,7% số doanh nghiệp lựa chọn và“không có hợp đồng xây dựng mới”với 44,7% doanh nghiệp lựa chọn.
Đáng chú ý, có 26,3% doanh nghiệp gặp khó khăn do nợ đọng xây dựng cơ bản không được thanh quyết toán đúng kỳ hạn; 26,2% doanh nghiệp nhận định do năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế; 21,8% doanh nghiệp thiếu vốn; 18,1% gặp khó khăn do thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; 16,9% doanh nghiệp gặp khó khăn do công tác giải phóng mặt bằng chậm...
Hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động kinh doanh dịch vụ là “nhu cầu thị trường trong nước thấp” với 54,1% số doanh nghiệp lựa chọn và“tính cạnh tranh của thị trường trong nước cao”với 48,2% số doanh nghiệp lựa chọn.
Tiếp đến 18,8% doanh nghiệp gặp khó khăn do giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào và các chi phí kho, bãi tăng cao; 16,1% doanh nghiệp nhận định do lãi suất vay vốn cao; 14,8% doanh nghiệp khó khăn về tài chính; 15,1% doanh nghiệp gặp khó khăn trong xúc tiến, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường; 13,2% gặp khó khăn do thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, quy trình đấu thầu còn phức tạp, chồng chéo...
Doanh nghiệp muốn tiếp tục giảm lãi suất cho vay
Theo kết quả khảo sát, mong muốn lớn nhất của các doanh nghiệp là giảm lãi suất cho vay, với tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị là 43,7%. Trong khi 32,6% doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước có các chính sách bình ổn giá nguyên, nhiên, vật liệu, giá dịch vụ đầu vào cho sản xuất, kinh doanh.
Về chính sách thuế, phí, lệ phí, 31,2% doanh nghiệp kiến nghị điều chỉnh các khoản nộp ngân sách nhà nước phù hợp; 19,5% doanh nghiệp kiến nghị giảm tiền thuê đất phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Về thủ tục hành chính, 25,4% doanh nghiệp kiến nghị cần rút ngắn thời gian và cắt giảm quy trình xử lý thủ tục hành chính.
Về thị trường đầu ra, 24,8% doanh nghiệp kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục có các biện pháp kích cầu trong nước; 19,5% doanh nghiệp kiến nghị tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường; 20,5% doanh nghiệp mong muốn tham gia sâu vào chuỗi sản xuất, cung ứng.
Trên cơ sở kết quả khảo sát, Tổng cục Thống kê kiến nghị, các giải pháp cần tập trung trong thời gian tới là phát triển thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các ngành, lĩnh vực mới nổi, các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả.
Bên cạnh đó, tập trung thúc đẩy xuất khẩu, khai thác tối đa thị trường lớn, tiềm năng, phát huy hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã ký kết; đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu. Chủ động tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhất là các thủ tục thông quan hàng hóa, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất, đáp ứng nhanh các tiêu chuẩn mới của đối tác xuất khẩu.
Đặc biệt, các bộ, ngành, địa phương cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho doanh nghiệp; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, xóa bỏ cơ chế “xin-cho”; phân cấp, phân quyền cho cơ quan, địa phương có thẩm quyền giải quyết và chịu trách nhiệm.
Tập trung thúc đẩy các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm, từ đó thu hút nguồn lực khu vực tư nhân, khu vực nước ngoài.
Đẩy mạnh triển khai các chương trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022-2025, hướng tới dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng cường kinh tế số và xanh, bao trùm.
Mặc dù còn không ít khó khăn, nhiều vấn đề phải giải quyết, song bao trùm vẫn là không khí lạc quan, tự tin của cộng đồng doanh nghiệp khi bước vào năm 2025.
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/doanh-nghiep-lac-quan-khi-buoc-vao-nam-2025-690064.html