Độc đáo nghệ thuật Nói thơ Vân Tiên
Thể loại Nói thơ Vân Tiên gắn với tên và nội dung truyện thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là Lục Vân Tiên.
Tối 31/8, tại phường Bến Tre, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long tổ chức Lễ công bố đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Nghệ thuật trình diễn dân gian Nói thơ Vân Tiên tỉnh Bến Tre” và đón bằng chứng nhận của Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Nghệ thuật diễn xướng đặc sắc của Nam Bộ
Tác phẩm Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào đầu những năm 1850 tại Gia Định. Đây là một truyện thơ Nôm dài hơn 2.000 câu lục bát, mang trong mình nội dung nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi tinh thần chính nghĩa, đạo trung hiếu, nghĩa tình thủy chung và lòng yêu nước thiết tha. Nhân vật chính Lục Vân Tiên là hình tượng của người anh hùng trượng nghĩa, dám xả thân cứu người, sống trung thành với lý tưởng và tình cảm trong sáng. Bên cạnh đó là hình ảnh Kiều Nguyệt Nga thủy chung, dịu hiền, gắn bó son sắt. Câu chuyện và nhân vật trở thành tấm gương đạo đức, một “sách giáo khoa sống” về cách làm người của nhân dân Nam Bộ trong bối cảnh đất nước còn nhiều biến động.
Từ giá trị văn học, Lục Vân Tiên nhanh chóng vượt ra ngoài khuôn khổ chữ nghĩa để đi vào đời sống thường nhật của người dân. Ban đầu, tác phẩm được đọc và kể cho học trò nghe trong các lớp học chữ Nôm, nhưng dần dần, người ta sáng tạo ra hình thức “nói thơ” để phổ biến tác phẩm rộng rãi hơn. Nói thơ Vân Tiên không phải là hát, cũng không hoàn toàn là kể, mà là sự kết hợp tinh tế giữa ngôn từ, nhịp điệu và âm hưởng dân gian. Người diễn xướng thường cất giọng mộc mạc, không cần nhạc cụ hay sân khấu cầu kỳ, đôi khi chỉ thêm vài tiếng đệm như “mà”, “ơ ớ” để giữ nhịp. Sự đơn giản ấy lại chính là sức mạnh làm cho lời thơ dễ đi vào lòng người, dễ lan tỏa trong mọi tầng lớp.

Lục Vân Tiên là tác phẩm có sức sống trường tồn cùng văn hóa dân tộc. Ảnh: VNtre.
Nghệ thuật Nói thơ Vân Tiên mang đậm phong vị Nam Bộ. Thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng vốn quen thuộc với dân ca, khi kết hợp cùng điệu thức Nam trong nhạc tài tử đã tạo nên sự phong phú về cung bậc cảm xúc. Giọng điệu có thể hùng hồn, mạnh mẽ khi ca ngợi chí khí của nhân vật, cũng có thể nhẹ nhàng, tha thiết khi nói đến tình cảm thủy chung, lại có lúc buồn bã, trầm lắng khi nhân vật gặp hoạn nạn, lưu lạc. Sự biến hóa ấy giúp người nghe không chỉ tiếp nhận nội dung truyện mà còn rung động theo từng cung bậc tình cảm của nhân vật, từ đó mà sống trọn vẹn hơn với đạo lý mà tác phẩm muốn truyền đạt.
Điều đáng chú ý là Nói thơ Vân Tiên gắn bó chặt chẽ với đời sống cộng đồng. Không cần nhà hát hay sân khấu, các giai điệu độc đáo này vang lên trong nhiều hoàn cảnh bình dị: trên đồng ruộng những ngày gặt hái, trong những buổi trà dư tửu hậu, trong đám tiệc, lễ hội, thậm chí cả trên chuyến phà vượt sông. Có khi, bà mẹ còn dùng lời thơ Vân Tiên để ru con ngủ, thay cho khúc hát ru. Chính sự phổ biến rộng rãi ấy đã biến nghệ thuật nói thơ này thành một phần tự nhiên trong sinh hoạt của người dân Nam Bộ, để rồi mỗi người đều có thể thuộc lòng một đoạn thơ, sẵn sàng cất giọng diễn xướng bất cứ lúc nào.
Giá trị trường tồn
Bên cạnh giá trị nghệ thuật và giải trí, Nói thơ Vân Tiên còn có vai trò giáo dục đạo đức vô cùng to lớn. Nhờ cách truyền đạt gần gũi, dễ nghe, dễ thuộc, lời thơ trở thành phương tiện khuyên răn, dạy bảo thế hệ trẻ về lòng hiếu thảo, sự trung nghĩa, tinh thần chính trực và tình người. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông vào cứu Kiều Nguyệt Nga hay cảnh Nguyệt Nga kiên định giữ trọn tiết nghĩa đã trở thành những minh chứng sống động, dễ tiếp nhận hơn nhiều so với những bài học khô khan trong sách vở. Người dân Nam Bộ, đặc biệt là ở Bến Tre – quê hương Nguyễn Đình Chiểu, xem Nói thơ Vân Tiên như một cách để tự răn mình, để giữ vững niềm tin và khí phách trong những giai đoạn gian khó. Trong phong trào Đồng Khởi, tinh thần kiên cường ấy còn được ví như sự xuất hiện của “những Lục Vân Tiên mới” nơi làng quê Nam Bộ.
Qua nhiều thế hệ, Nói thơ Vân Tiên được lưu giữ bằng hình thức truyền khẩu. Những người cao tuổi, nghệ nhân dân gian trở thành “kho tàng sống”, truyền dạy cho con cháu hoặc cộng đồng. Không ít gia đình xem đây là một truyền thống quý, được gìn giữ như một phần của gia phong. Đặc biệt, tại Bến Tre, chính quyền và các tổ chức văn hóa đã tổ chức nhiều câu lạc bộ, hội diễn, lớp học nhằm bảo tồn và lan tỏa nghệ thuật nói thơ. Ở trường THPT Phan Liêm (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre cũ), Nói thơ Vân Tiên được đưa vào hoạt động ngoại khóa Ngữ văn từ năm 2018. Học sinh không chỉ học lý thuyết về tác phẩm mà còn được tham gia diễn xướng, dự hội thi, nghe nghệ nhân biểu diễn. Nhờ đó, các em cảm nhận được sức sống chân thực của văn học dân gian, đồng thời thấm nhuần các giá trị đạo đức một cách tự nhiên và sâu sắc hơn.

Giới thiệu cho học sinh Diễn xướng dân gian Nói thơ Vân Tiên tại Di tích Quốc gia đặc biệt Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu. Ảnh: Ngọc Thạch / Báo Đồng Khởi.
Không chỉ dừng lại ở cộng đồng bản địa, Nói thơ Vân Tiên còn được giới thiệu ra thế giới. Trong các chương trình giao lưu văn hóa, đặc biệt tại Nhật Bản, nghệ thuật này đã gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn bè quốc tế bởi tính độc đáo và chiều sâu nhân văn. Tại Đại học Osaka, truyện Lục Vân Tiên được dịch sang tiếng Nhật để giảng dạy tiếng Việt, mở ra một hướng đi mới cho việc quảng bá văn hóa Việt Nam. Điều này cho thấy sức hấp dẫn vượt biên giới của Nói thơ Vân Tiên, khi những giá trị nhân bản của tác phẩm có thể chạm đến trái tim con người dù ở bất kỳ quốc gia nào.
Nỗ lực bảo tồn đã được đền đáp xứng đáng khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chính thức công nhận nghệ thuật Nói thơ Vân Tiên là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào tháng 6 năm 2025. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân Bến Tre mà còn là minh chứng cho sức sống bền bỉ của một loại hình dân gian. Việc ghi nhận này tạo tiền đề để Nói thơ Vân Tiên được quan tâm nhiều hơn, có cơ hội xuất hiện trong các chương trình du lịch văn hóa, trong giáo dục, cũng như trên các sân khấu trong và ngoài nước.
Có thể khẳng định, Nói thơ Vân Tiên là một trong những minh chứng điển hình cho sức sống của văn hóa dân gian Việt Nam. Bắt nguồn từ một tác phẩm văn học, các giá trị tinh thần đã vượt khỏi trang sách để trở thành lời ca, tiếng nói, nếp sống và bài học đạo đức trong cộng đồng. Trải qua hơn một thế kỷ, nghệ thuật ấy vẫn vẹn nguyên sức hấp dẫn, vẫn gieo vào lòng người những bài học về lòng trung nghĩa, nhân ái và niềm tin vào chính nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc bảo tồn và phát huy giá trị của Nói thơ Vân Tiên không chỉ là trách nhiệm đối với quá khứ, mà còn là cách để khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trong tương lai. Khi những câu thơ lục bát vẫn còn vang lên trên đất Bến Tre hay trên sân khấu quốc tế, đó chính là minh chứng cho sức sống bất diệt của một di sản dân gian độc đáo, giàu giá trị và đậm đà bản sắc Nam Bộ.