Đổi mới quyết liệt từ chính sách - thu hút dòng vốn FDI vào nông nghiệp

Trong tổng thể chính sách thu hút FDI, nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư, nhưng so với các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm một tỷ trọng rất thấp, phần lớn là các dự án quy mô nhỏ, dòng vốn tăng trưởng không ổn định.

Thực trạng thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp

Giai đoạn 2000 - 2011, đầu tư FDI vào nông nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 2,3% FDI cả nước. Đây là con số rất thấp so với một nền kinh tế có diện tích đất đai, mặt nước, lực lượng lao động lớn. Nếu tính tổng số các dự án được cấp phép còn hiệu lực, đến hết năm 2011, khu vực nông nghiệp của Việt Nam còn 495 dự án với vốn đăng ký đầu tư ở mức 3.264,5 triệu USD. Mức vốn này chỉ chiếm 1,64% tổng vốn đăng ký đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2000 – 2011.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có 729 dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường (trong đó nông nghiệp là 537 dự án; Khai khoáng: 106 dự án; Xử lý nước, rác thải và môi trường: 86 dự án), với tổng vốn đăng ký gần 11,89 tỷ USD, nếu tính thêm các ngành hỗ trợ như chế biến, vật tư, thương mại, thì tổng vốn FDI toàn ngành đạt hơn 26 tỷ USD - chiếm khoảng 6% tổng vốn FDI vào Việt Nam – con số này rất khiêm tốn so với tiềm năng.

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dịch bệnh, giá cả thị trường và đầu ra sản phẩm

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dịch bệnh, giá cả thị trường và đầu ra sản phẩm

Cũng trong năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD tăng gần 19% so với năm 2023, trong đó khu vực FDI đóng góp khoảng 12,6 tỷ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch của toàn ngành.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia nông nghiệp, khu vực FDI đã tạo ra khoảng 500.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp trong lĩnh vực nông nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ, phát triển vùng nguyên liệu, đào tạo kỹ năng cho người nông dân và hình thành chuỗi cung ứng hiệu quả. Bổ sung nguồn vốn đầu tư đáng kể cho ngành nông nghiệp, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đa dạng hóa đối tượng sản xuất, tạo ra các giống cây, con mới cho năng suất, chất lượng sản phẩm cao.

Tuy nhiên, theo ông Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dù đã đạt được một số kết quả tích cực khi thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là: Phần lớn các dự án FDI có quy mô vừa và nhỏ, số dự án có vốn đăng ký dưới 1 triệu USD chiếm khoảng 23%, dẫn đến khó đột phá khi chuyển đổi mô hình sản xuất. Việc phân bổ vốn đầu tư không đồng đều giữa các vùng, tập trung chủ yếu ở những khu vực có hạ tầng, giao thông đi lại thuận lợi, gần thị trường tiêu thụ, trong khi đó một số vùng khó khăn, có tiềm năng phát triển nông nghiệp lại không thu hút được nhà đầu tư, thí dụ như miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Một vấn đề quan trọng nữa, ông Hưng nhấn mạnh đó là sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nông nghiệp trong nước, hợp tác xã, người nông dân còn yếu, quá trình chuyển giao công nghệ, lan tỏa giá trị gia tăng, phát triển hệ sinh thái địa phương chưa thực sự hiệu quả. Đó là còn chưa kể đến một số dự án FDI trong lĩnh vực môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu về công nghệ xử lý hiện đại, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường nếu không được kiểm soát tốt.

Đổi mới quyết liệt từ chính sách đến cách làm

Theo các chuyên gia nông nghiệp, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp còn khiêm tốn, có thể kể đến như: sản xuất nông nghiệp thường phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu, dịch bệnh cũng như giá cả thị trường và đầu ra sản phẩm - đây đều là những rủi ro không đoán định được, khiến nhà đầu tư FDI e ngại. Bên cạnh đó, chúng ta thiếu chiến lược phát triển tổng thể ngành nông nghiệp mang tính liên ngành, liên vùng; chưa có chính sách hấp dẫn để thu hút đầu tư FDI vào nông nghiệp. Để thu hút được, cần hướng đến nguyên tắc lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, đặc biệt thúc đẩy KHCN, đổi mới sáng tạo trong ngành nông nghiệp.

Công nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp và hạ tầng phục vụ nông nghiệp còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư, hiện nay một số vùng đang đối mặt với xâm nhập mặn, thiên tai lũ lụt, ngập úng, các kho bảo quản sau thu hoạch chưa tốt, chi phí logictics cao.

Đất nông nghiệp manh mún, trong khi nhà đầu tư nước ngoài cần diện tích đất và quy mô lớn để phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn. Nhiều địa phương “hy sinh” đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, dẫn đến quỹ đất bị thu hẹp.

Thủ tục hành chính đầu tư dự án còn nhiều rắc rối, chưa thông thoáng, mất thời gian trong khi sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thiên tai dịch bệnh, cơ hội trên thị trường. Tất cả những điều này sẽ dẫn đến nhà đầu tư lâu thu hồi được vốn, nên họ rất e dè, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tăng, điều này càng làm gia tăng sự lo lắng của nhà đầu tư FDI.

Cần có chiến lược thu hút FDI vào ngành nông nghiệp, để dòng vốn này thực sự trở thành “đòn bẩy”

Cần có chiến lược thu hút FDI vào ngành nông nghiệp, để dòng vốn này thực sự trở thành “đòn bẩy”

Xu hướng hiện nay của Việt Nam khi thu hút FDI vào các ngành công nghiệp đó là làm sẵn các hạ tầng như nhà xưởng và cơ sở vật chất đi kèm, để khi nhà đầu tư vào có thể sản xuất kinh doanh được ngay. Nhưng trong nông nghiệp lại chưa làm được việc này, cơ sở hạ tầng rất yếu - nếu Việt Nam tiếp tục thúc đẩy thu hút FDI vào ngành nông nghiệp thì trong tương lai cần tính đến điều này.

Ông Lim Dyi Chang, Giám đốc cấp cao Khối Ngân hàng Doanh nghiệp, Ngân hàng UOB Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp FDI thường tìm những điểm đến đầu tư có thể hỗ trợ được họ nhiều hơn, giảm thiểu rủi ro và có những triển vọng về thị trường tươi sáng hơn. Việt Nam cần chuyển mình từ nước tiếp nhận vốn đơn thuần sang đối tác chiến lược và tạo ra được giá trị. Trong kỷ nguyên mới, thành công của chiến lược FDI không thể chỉ được đo lường thuần túy bằng lượng vốn thu hút được mà còn phải thông qua những hiệu quả, hiệu năng mà dòng vốn đó đem lại.

Nghị quyết 26 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề ra nhiệm vụ, cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, kể cả huy động vốn ODA và FDI. Nhằm thúc đẩy đầu tư và phát triển bền vững trong nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện Nghị định thay thế Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Theo ông Võ Văn Hưng, khi xây dựng chính sách điều quan trọng nhất là chính sách đó phải đi vào cuộc sống, giải quyết các bài toán thực tế mà doanh nghiệp đang đối mặt. Nghị định mới này đang được kỳ vọng sẽ có những đột phá để tháo gỡ các rào cản, thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào nông nghiệp, xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy, cùng có lợi và mở rộng hợp tác quốc tế. Đồng thời mở ra giai đoạn phát triển mới cho nông nghiệp Việt Nam theo hướng xanh hơn, hiện đại hơn và bền vững hơn.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài FDI đã, đang và tiếp tục là động lực quan trọng trong quá trình hiện đại hóa nền nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để dòng vốn này thực sự trở thành “đòn bẩy”, cần sự đổi mới quyết liệt từ chính sách đến cách làm, qua đó giúp nông nghiệp Việt Nam không chỉ giữ vai trò trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế mà còn vươn lên trở thành ngành hàng có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hướng tới mục tiêu đến năm 2030, dòng vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông nghiệp đạt 25 tỷ USD, trong đó tập trung vào các dự án đầu tư có hàm lượng khoa học công nghệ cao, thân thiện môi trường; các ngành hàng nông sản mà Việt Nam có thế mạnh.

Lê Thanh/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/doi-moi-quyet-liet-tu-chinh-sach-thu-hut-dong-von-fdi-vao-nong-nghiep-post1242428.vov