Đổi mới sáng tạo: 'Chìa khóa' cho công nghiệp hỗ trợ bắt nhịp Nghị quyết 57
Đổi mới sáng tạo là động lực then chốt giúp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam bắt nhịp Nghị quyết 57-NQ/TW, nâng tầm vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, để không tụt hậu, buộc các doanh nghiệp phải tiến đến làm chủ thiết kế, chế tạo và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. "Chìa khóa" để hiện thực hóa điều đó, không gì khác hơn chính là đổi mới sáng tạo - yếu tố quyết định sức bật, sức cạnh tranh và tương lai phát triển bền vững của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.
Vậy, đâu là hướng đi để xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiệu quả? Doanh nghiệp Việt cần chuẩn bị gì trước làn sóng đầu tư công nghệ đang được kích hoạt? Để hiểu rõ hơn, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Duy Linh, Viện Cơ khí động lực, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chuyên biệt
- Theo ông, đâu là điểm đột phá trong cách tiếp cận đổi mới sáng tạo để công nghiệp hỗ trợ Việt Nam không tụt lại phía sau?
TS. Nguyễn Duy Linh: Điểm đột phá, theo tôi, phải là tư duy hệ thống trong cách tiếp cận đổi mới sáng tạo, chứ không chỉ là đổi mới mang tính kỹ thuật, rời rạc. Trước đây, nhiều doanh nghiệp Việt chỉ nghĩ đổi mới sáng tạo là mua thêm thiết bị mới hay cải tiến vài quy trình sản xuất, đó là nhận thức rất giới hạn. Trong khi ở các nước phát triển, đổi mới sáng tạo là hệ sinh thái tích hợp gồm công nghệ, dữ liệu, thị trường, nhân lực và cơ chế chính sách cùng chuyển động.

TS. Nguyễn Duy Linh, Viện Cơ khí động lực, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải. Ảnh: NVCC
Chúng ta cần chuyển đổi từ “đổi mới nhỏ lẻ, nội bộ doanh nghiệp” sang đổi mới mở, tức là tạo cơ chế để doanh nghiệp nhỏ có thể tiếp cận ý tưởng từ bên ngoài, từ viện nghiên cứu, startup, thậm chí là từ đối thủ. Điều này đòi hỏi năng lực tiếp thu và hấp thụ công nghệ. Tôi cho rằng, đây là khâu nhiều doanh nghiệp Việt còn yếu.
Bên cạnh đó, sự tham gia của Nhà nước như một “nhạc trưởng” giữ vai trò điều phối thị trường công nghệ, đầu tư ban đầu cho nghiên cứu và phát triển cũng như kết nối cung cầu đổi mới là điều kiện quyết định. Chỉ khi có sự đầu tư và dẫn dắt bài bản từ Chính phủ, doanh nghiệp mới dám nghĩ xa, làm lớn.
- Để bắt nhịp Nghị quyết 57-NQ/TW, liệu Việt Nam có cần thiết lập một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chuyên biệt cho công nghiệp hỗ trợ? Nếu có, cần bắt đầu từ đâu, thưa ông?
TS. Nguyễn Duy Linh: Chắc chắn là cần thiết và thậm chí phải coi đó là nền tảng phát triển dài hạn chứ không chỉ là một sáng kiến tạm thời. Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chuyên biệt cho công nghiệp hỗ trợ phải bao gồm 4 cấu phần cốt lõi.
Hạ tầng đổi mới sáng tạo: Các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, khu thiết kế chế thử, nền tảng số cho kết nối công nghệ. Các trung tâm như vậy phải đặt tại các vùng công nghiệp trọng điểm như Bắc Ninh, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai...
Cơ chế tài chính ưu đãi, bảo lãnh rủi ro: Nhà nước cần tạo quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc bảo lãnh tín dụng riêng cho nghiên cứu và phát triển công nghiệp hỗ trợ, đây vốn là lĩnh vực đầu tư dài hơi, ít hấp dẫn ngân hàng thương mại.
Chính sách mở dữ liệu và chuyển giao công nghệ: Cần có khung pháp lý để dữ liệu sản xuất, kỹ thuật, vật liệu được chia sẻ giữa doanh nghiệp trong chuỗi. Ngoài ra, cần thúc đẩy cơ chế cấp phép công nghệ giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
Đào tạo nhân lực nghiên cứu và phát triển gắn với thị trường: Các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật cần được tái cấu trúc theo hướng song hành với doanh nghiệp. Trong đó, đào tạo người ra làm được việc ngay trong phòng lab, xưởng sản xuất.
Khởi đầu, tôi cho rằng, nên chọn một khu công nghiệp đổi mới sáng tạo thí điểm, có cơ chế đặc thù như một đặc khu công nghệ để dẫn dắt. Theo đó, hãy bắt đầu bằng việc xây dựng chuỗi giá trị hỗ trợ ngành điện tử, ô tô hoặc thiết bị y tế. Đây là những lĩnh vực đang có thị trường lớn và nhu cầu nội địa rõ ràng.
Đổi mới sáng tạo không đến tự nhiên
- Có thể kỳ vọng vào một làn sóng đầu tư công nghệ vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ nhờ động lực từ Nghị quyết 57 không, thưa ông? Doanh nghiệp Việt nên chuẩn bị gì?
TS. Nguyễn Duy Linh: Tôi cho rằng, có thể và thậm chí cần phải kỳ vọng. Nghị quyết 57 không chỉ là một định hướng mang tính chiến lược mà còn là một cơ chế kích hoạt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong công nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Công nghiệp hỗ trợ đang được đặt trong bối cảnh tự chủ công nghệ và phát triển các ngành nền tảng của công nghiệp quốc gia. Điều này cho thấy vai trò trung tâm của công nghệ trong chính sách phát triển.
Nếu các cam kết trong nghị quyết được cụ thể hóa thành chính sách ưu đãi thực chất, hoàn toàn có thể tạo nên một làn sóng đầu tư công nghệ quy mô lớn vào lĩnh vực này. Đặc biệt, khi xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng đang tạo ra áp lực cho các tập đoàn đa quốc gia, phải tìm nguồn cung ứng nội địa hóa sâu hơn, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội đón dòng vốn mới nếu chủ động chuẩn bị.

Nghị quyết 57 mở ra cơ hội bứt phá cho công nghiệp hỗ trợ. Đổi mới sáng tạo là "chìa khóa" để doanh nghiệp nâng tầm giá trị và năng lực cạnh tranh quốc gia. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, dòng đầu tư công nghệ này không rơi xuống một cách tự nhiên. Doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần có sự chuẩn bị đồng bộ trên 3 phương diện:
Tư duy đầu tư dài hạn cho công nghệ lõi: Không thể tiếp tục cách làm “mua gì rẻ thì nhập, có đơn hàng mới nâng cấp”. Cần xác định rõ lợi thế cạnh tranh trong chuỗi giá trị, từ đó dám đầu tư vào dây chuyền, phần mềm thiết kế, hệ thống quản trị sản xuất thông minh.
Nâng năng lực hấp thụ công nghệ: Đầu tư máy móc chỉ là một phần. Quan trọng hơn là con người vận hành, quy trình quản lý chất lượng, văn hóa đổi mới trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tuyển và giữ chân kỹ sư công nghệ. Đồng thời, thiết lập bộ phận nghiên cứu và phát triển dù là nhỏ.
Tham gia hệ sinh thái đổi mới mở: Doanh nghiệp nên tìm kiếm đối tác là các viện nghiên cứu, trường đại học, startup công nghệ trong nước, thay vì chỉ trông chờ đơn hàng gia công. Có thể bắt đầu từ các chương trình thí điểm, dự án đồng phát triển sản phẩm với đối tác FDI.
Nếu không thay đổi cách tiếp cận từ bị động sang chủ động, từ gia công sang phát triển, doanh nghiệp Việt sẽ bỏ lỡ cơ hội vàng mà Nghị quyết 57 đang mở ra. Bản thân chính sách không tạo nên chuyển biến, mà chỉ những người dám đi trước sẽ tận dụng được lợi thế chiến lược trong cuộc chơi công nghiệp mới.
- Vai trò của các tập đoàn FDI, viện nghiên cứu, trường đại học trong việc dẫn dắt đổi mới sáng tạo cho công nghiệp hỗ trợ nội địa nên được nhìn nhận ra sao, thưa ông?
TS. Nguyễn Duy Linh: Theo tôi, các tập đoàn FDI, viện nghiên cứu và trường đại học chính là “3 chân kiềng” không thể thiếu của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho công nghiệp hỗ trợ.
Với tập đoàn FDI: Là nguồn cầu công nghệ rất mạnh. Nếu biết tận dụng, các FDI có thể là bệ phóng cho doanh nghiệp Việt Nam vươn lên về kỹ thuật. Nhưng vấn đề là phải tạo liên kết ràng buộc trách nhiệm công nghệ trong chính sách đầu tư FDI. Chẳng hạn, yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa đi kèm với cam kết chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ sư Việt.
Với viện nghiên cứu: Nhiều viện hiện nay đang ở tình trạng “nghiên cứu cho có”, không gắn với doanh nghiệp. Cần chuyển họ sang mô hình viện nghiên cứu ứng dụng, có KPI cụ thể về số lượng sáng chế được thương mại hóa, số doanh nghiệp được tư vấn công nghệ. Nên có cơ chế đặt hàng trực tiếp từ Nhà nước hoặc các hiệp hội ngành nghề.
Với trường đại học: Cần được doanh nghiệp hóa về chương trình và tổ chức. Sinh viên kỹ thuật cần được đào tạo thực chiến hơn, thông qua chương trình học kỳ doanh nghiệp tại các khu công nghiệp. Đồng thời, trường phải chủ động đề xuất giải pháp công nghệ, cải tiến thiết bị với doanh nghiệp, tức là trở thành một phần của chuỗi đổi mới.
Xin cảm ơn ông!
Nghị quyết 57-NQ/TW nêu rõ, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại. Đồng thời, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.