Đổi mới sâu sắc tư duy xây dựng pháp luật, chuyển mạnh từ quản lý, kiểm soát sang kiến tạo phát triển
Hiện thể chế pháp luật để phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn nhiều điểm nghẽn, khoảng trống. Vì vậy, cần thay đổi tư duy xây dựng pháp luật, có các giải pháp đồng bộ tháo gỡ nhằm tạo điều kiện phát huy nguồn lực này.
Cuộc cách mạng trong xây dựng thể chế kiến tạo
Sáng 22/11, tham luận tại Diễn đàn xây dựng pháp luật lần thứ nhất do Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức với chủ đề “Hoàn thiện thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Đỗ Đức Hiển cho biết: Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã đề ra quan điểm phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới; đồng thời, xác định thể chế là điều kiện tiên quyết cần hoàn thiện và đi trước một bước.

Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Đỗ Đức Hiển. Ảnh: Quochoi.vn
Có thể khẳng định, nhận thức về vai trò của thể chế đối với phát triển đã được nâng tầm trong lĩnh vực KHCN, ĐMST và CĐS ngay sau khi ban hành Nghị quyết 57. Nhận thức ấy đã chuyển thành cuộc cách mạng trong xây dựng thể chế kiến tạo.
Thống kê cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 2025, Quốc hội và các cơ quan đã hoàn thành một khối lượng khổng lồ các công việc với 17 luật được ban hành, trong đó có những luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như: Luật KHCN và ĐMST, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân… Cùng với đó là 4 Nghị quyết thí điểm cơ chế đặc thù, 56 nghị định của Chính phủ, 60 thông tư và hơn 700 văn bản ở các cấp địa phương được ban hành để khơi thông các điểm nghẽn và nguồn lực.
"Những số liệu này minh chứng cho quyết tâm chính trị cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan trong việc kiến tạo hành lang pháp lý cho kỷ nguyên số và kinh tế tri thức" - ông Đỗ Đức Hiển nhấn mạnh.
Còn khoảng trống pháp lý đối với các công nghệ mới
Mặc dù vậy, hiện vẫn còn những điểm nghẽn thể chế còn hiện hữu trong lĩnh vực KHCN, ĐMST và CĐS. Thứ nhất, điểm nghẽn thể hiện ở tư duy quản lý tài chính. Trên cơ sở chủ trương Nghị quyết 57, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193, sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 88, các địa phương cũng đã ban hành một số cơ chế chính sách, nhưng tài chính cho khoa học, công nghệ vẫn đang "trói chân" sự sáng tạo với các chứng từ, hóa đơn của "tư duy hành chính". Điều này khiến nhà khoa học mất rất nhiều thời gian để giải trình các hồ sơ chứng từ.

Đại biểu tham dự diễn đàn. Ảnh: Quochoi.vn
Dẫn các con số về tỷ lệ giải ngân chi ngân sách cho KHCN (thống kê sơ bộ trong nghiên cứu của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương), ông Phạm Đức Hiển cho biết: đến tháng 8/2025, chi ngân sách cho KHCN giải ngân trung bình toàn quốc đạt 60% kế hoạch được giao. Nhiều địa phương là đầu tàu lớn, đóng vai trò rất quan trọng như Hà Nội mới giải ngân được 18%, Cần Thơ mới đạt khoảng 30%.
Bên cạnh đó, cả nước có 36 Quỹ phát triển KHCN tại địa phương nhưng chỉ có 14/36 quỹ có giải ngân. Tổng toàn bộ vốn cấp cho 36 quỹ này chỉ đạt 856,495 tỷ đồng (bằng khoảng 5 km đường cao tốc với suất đầu tư hiện nay)... Rất nhiều địa phương đóng vai trò quan trọng nhưng tỷ lệ giải ngân là 0 đồng. Những động lực công nghệ rất quan trọng thể hiện trong mô hình thúc đẩy KHCN của địa phương thì tỷ lệ giải ngân cũng rất thấp hoặc bằng 0.
Thực tế này đặt ra yêu cầu phải tổng rà soát sự đồng bộ trong việc triển khai các Nghị quyết, Nghị định để giải quyết câu chuyện này và trúng những điểm nghẽn trong vận hành các mô hình rất quan trọng.
Điểm nghẽn thứ hai là thương mại hóa tài sản trí tuệ và chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn từ góc độ thể chế. Tình trạng nhiều kết quả nghiên cứu khoa học từ ngân sách Nhà nước phải cất trong ngăn kéo, các nguyên nhân có thể là do vướng về các quy định định giá tài sản công, quy trình xác định quyền sở trí tuệ phức tạp, thiếu quy định để thúc đẩy việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp dựa trên quyền sở trí tuệ.

Quang cảnh diễn đàn. Ảnh: Quochoi.vn
Thứ ba, hiện còn khoảng trống pháp lý đối với các công nghệ mới, các vấn đề mới, mô hình mới. Trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ số, doanh nghiệp Việt muốn phát triển nhưng còn thận trọng vì thiếu các quyết định cụ thể như quy định về đạo đức AI, cơ chế giám sát hệ thống AI rủi ro...
Hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ
Phó trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhấn mạnh, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thể chế là chìa khóa quan trọng cho KHCN, ĐMST và CĐS. Vì vậy cần hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý có ý nghĩa then chốt để thực hiện cấp vốn trên quyền sở trí tuệ, các quy định rõ ràng về quyền sở hữu đăng ký thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Phó trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương đề xuất cần tiếp tục đổi mới sâu sắc tư duy xây dựng pháp luật, chuyển mạnh từ tư duy quản lý, kiểm soát sang tư duy kiến tạo phát triển. Đối với lĩnh vực KHCN, ĐMST, CĐS, cách tiếp cận lập pháp cần tiếp tục theo hướng đổi mới sáng tạo.
Cùng với đó, cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ cho KHCN, ĐMST, CĐS. Các luật nền tảng như đất đai, ngân sách Nhà nước, luật đầu tư công, doanh nghiệp cần được rà soát, sửa đổi theo hướng thông thoáng, cắt giảm thủ tục tạo điều kiện cho các dự án AI và doanh nghiệp công nghệ phát triển.

Đại biểu tham dự diễn đàn. Ảnh: Quochoi.vn
Đồng thời, các nghị định, thông tư để hướng dẫn triển khai các luật chuyên ngành mới ban hành phải được thiết kế thống nhất, đồng bộ, tránh trồng chéo và tạo sự chủ động.
Ngoài ra, thể chế sở hữu trí tuệ phải được nâng cấp toàn diện để trở thành nền tảng của kinh tế tri thức. Các điểm nghẽn, nút thắt về nguồn lực tài chính cần được giải quyết bằng cơ chế huy động và phân bổ nguồn lực tài chính một cách quyết liệt, thực chất và hiệu quả.
Thể chế chỉ được phát huy khi được vận hành bởi bộ máy tổ chức thực thi hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm. Vì vậy, cần triển khai hệ thống giám sát đánh giá dựa trên cơ sở dữ liệu và KPI, cập nhật thời gian thực để xử lý vướng mắc. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và lấy thước đo hiệu quả sự hài lòng của doanh nghiệp, người dân là thước đo đánh giá.
"Việc thực hiện đồng bộ các nội dung trên sẽ tạo ra cú hích để thể chế mạnh mẽ, tháo gỡ rào cản cố hữu, giải phóng tiềm năng sáng tạo của quốc gia" - Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Đỗ Đức Hiển nhấn mạnh.











