Dối vua, tội tử

Trong bộ 'Quốc triều hình luật' nước ta thời Lê, tức Luật Hồng Đức, có điều luật về tội gian dối, là Điều 547, phần đầu quy định: 'Bề tôi tâu việc mà dối trá (dâng sổ sách hay dâng thư cũng vậy) thì xử tội lưu hay tội chết'.

Điều này nằm trong quyển thứ V của bộ hình luật triều Lê, là chương "Trá ngụy", với các tội về gian dối, gồm 38 điều. Điều về dối vua là điều thứ 3 của chương này. Phần văn bản còn lại đến ngày nay, đã được dịch và xuất bản, Điều 547 Bộ luật Hồng Đức giải thích thêm: "Nghĩa là nói dối vua những việc phi lý, như là việc chỉ con hươu mà nói là con ngựa của Triệu Cao đời nhà Tần”.

Bộ “Hoàng Việt luật lệ” của triều Nguyễn.

Bộ “Hoàng Việt luật lệ” của triều Nguyễn.

Tích “chỉ hươu nói ngựa” được đề cập trong điều luật này nguyên văn là “chỉ lộc vi mã”, có xuất xứ từ một chuyện được chép trong “Sử ký Tư Mã Thiên”. Các thiên “Mông Điềm liệt truyện”, “Lý Tư liệt truyện” của bộ “Sử ký” chép rằng, Triệu Cao, quan nước Tần, sau khi hại chết Thừa tướng Lý Tư, được Tần Nhị Thế phong làm Trung thừa tướng, nắm hết quyền hành. Triệu Cao có mưu đồ làm loạn xưng vương, nhưng sợ lòng người không phục, bèn nghĩ cách thử lòng. Tháng 8 năm 207 trước Công nguyên, ông ta cho người dắt con hươu dâng lên Nhị Thế và bảo đó là con ngựa. Nhị Thế cho rằng nó là con hươu nhưng nhiều đại thần đều hùa theo Triệu Cao, nói là ngựa, chỉ có một số ít không chịu, khẳng định là hươu. Nhị Thế tưởng là ngựa thật, nghĩ mình loạn óc, bèn vào Vọng Di cung trai giới. Còn những người nói thật đều bị Triệu Cao để bụng trả thù.

Phần tiếp theo trong Điều 547 quy định tiếp: “Việc dối trá tâu lên mà là việc nhẹ, thì xử tội "tâu vua không thật". Dối trá quan đại thần, thì xử nhẹ hơn tội trên 3 bậc; nói dối quan bản quản thì chiếu theo phẩm mà luận tội giảm bớt 1 bậc”.

Chương "Trá ngụy" của Bộ luật Hồng Đức còn có các điều quy định tội làm giả ấn tín, tờ chế, làm giả tiền đồng đều bị xử chém; làm giả hay thêm bớt vào công văn thì xét xem định trốn tránh việc gì hay tội gì, thì xử nặng hơn tội ấy 2 bậc, việc đó chưa thi hành thì được giảm 1 bậc.

Điều 537 chương này cũng quy định về tội phao tin đồn nhảm. Điều luật viết: "Kẻ phao tin bậy ngoài biên thùy có giặc giã để dân chúng sợ hãi thì xử tội chém; thưởng cho người tố cáo tước 2 tư".

Trong lịch sử Việt Nam, thời Lý, Trần đều ban hành các bộ hình luật làm cơ sở để xử án, nhưng đến nay, các bộ luật này đều đã thất truyền, chỉ còn lưu trữ được bộ hình luật triều Lê, có tên chính thức là Quốc triều Hình luật, hay còn gọi là Lê triều Hình luật, được ban hành dưới niên hiệu Hồng Đức, đời Vua Lê Thánh Tông (niên hiệu được sử dụng từ năm 1470-1497, nhưng không rõ bộ luật ban hành chính xác năm nào), nên còn được gọi là Luật Hồng Đức.

Tuy nhiên, các bộ hình luật thời phong kiến Việt Nam đều tham khảo từ các bộ hình luật các triều đại Trung Quốc, nên các hình phạt và điều luật có nhiều nét tương đồng. Tội “dối vua” hay các tội “trá ngụy” trong hình luật Trung Quốc cũng đều bị xử tội lưu hay tội chết.

Liên quan đến tội dối vua cũng được sử sách chép vào thời Trần, như đời Vua Trần Minh Tông, năm Đại Khánh thứ 3 (1316), vua sai Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đi Diễn Châu xét duyệt sổ lính, sổ dân, lấy Nội thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Nguyễn Bính làm phó. Khi xong việc về triều, Nguyễn Bính đem tiền bổng dâng nộp, vua sai hữu ty nhận lấy. Có người hỏi: "Bính nộp tiền bổng mà bệ hạ nhận, thần chưa hiểu là cớ làm sao?". Vua Trần Minh Tông trả lời rằng: "Bính nộp tiền bổng là thành thực, nếu trẫm không nhận thì hãm Bính vào tội dối trá, cho nên nhận lấy để tỏ rõ Bính không gian dối".

Khi Bình Định vương Lê Lợi lãnh đạo quân dân nước ta tiến hành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến hồi kết, năm 1427, quân Minh đã bị vây chặt trong thành Đông Quan, ngài đã ban hành 3 điều răn bảo các quan văn võ, bao gồm: Chớ thờ ơ; Chớ lừa dối; Chớ tham lam.

Đến khi quân Minh đã đầu hàng, vương lại dụ các tướng hiệu, quan nhân 6 điều; trong đó, 2 điều đầu tiên là: Kẻ làm tôi con phải trung thành thờ vua, không được làm điều dối trá; ở với mọi người phải cho ngay thẳng, không được làm điều gian phi.

Bộ hình luật triều Lê sơ, Quốc triều Hình luật được khởi thảo từ thời Vua Lê Thái Tổ, sau đó được bổ sung dưới các triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Tới thời Lê Thánh Tông thì bộ luật được hoàn chỉnh và ban hành trong giai đoạn niên hiệu Hồng Đức, trong đó quy định chương “Trá ngụy” với 38 điều như nói ở trên.

Vụ xử án lừa dối vua nặng nhất diễn ra vào thời Vua Lê Tương Dực. Tháng 11 năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), Trần Tuân - cháu viên Thượng thư Bộ Lại Trần Cận - người huyện Bất Bạt (Sơn Tây, nay là Hà Nội) nổi loạn, khiến nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, mọi người đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Vua sai Hữu thị lang Bộ Hộ là Lê Đĩnh Chi, cùng các quan khoa, đài đi khám xét các phố xá hàng chợ, xem người nào còn nhà ở, người nào vợ con đã về quê quán, ra lệnh cấm rất nghiêm ngặt, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê.

Những người đã để vợ con về quê, phần nhiều đem người khác đến, nói dối là vợ con mình để đợi các quan tới khám xét. Nhà vua mới sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần xem thực hư ra sao, thì thấy vợ con của 5 người là Lê Đĩnh Chi, Nguyễn Tông Thốc, Nguyễn Lý Quang và Hàn lâm kiểm thảo Ngô Tuy, Giám sát ngự sử Trần Húc đều đã về nguyên quán. Vua Tương Dực liền sai giết bọn Lê Đĩnh Chi ở ngã 3 phường Đông Hà, vì bọn họ làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước, cho nên xử tội.

Sang triều Nguyễn, bộ hình luật của triều đại này, là Hoàng Việt Luật lệ, được ban hành năm Gia Long thứ 11 (1812), cũng có một chương thứ 7 về các tội trá ngụy (man trá, giả mạo), với 11 điều (từ Điều 321 đến Điều 331) là nhóm tội về man trá, giả mạo ấn tín, giấy tờ, danh chức, lén đút tiên, ngụy tạo vàng bạc. Các tội này bị trừng phạt nặng, thường bị phạt đồ, lưu, tử. Các trường hợp giả mạo khác như: giả mạo tên họ, giả bệnh tật để trốn tránh việc khó, giả chết, lập kế dụ người khác phạm pháp rồi xúi người tố cáo, tội phạm tự gây thương tích tàn tật để khỏi bị tra hỏi, bị xử roi, trượng, đồ căn cứ vào mức độ vi phạm. Tất nhiên, tội dối vua vẫn bị xử mức nặng nhất.

Điển hình của việc áp dụng luật này là sự việc xảy ra năm Minh Mạng thứ 9 (1828), với vụ xử 2 viên quan đứng đầu Bộ Công là Thượng thư Trần Văn Tính và Thị lang Trần Đăng Nghi. Hai viên quan này sai trấn Gia Định đóng thuyền, nhưng do sai sót đã đưa ra kích thước thuyền quá ngắn. Quyền Tổng trấn Gia Định là Nguyễn Văn Tuyên và Công tào là Trần Nhật Vĩnh đã khởi công nhưng nhận thấy sai sót, đã làm sớ tâu về triều, nhưng Trần Văn Tính giấu tờ sớ đi.

Đến khi đóng thuyền xong, bọn Tuyên sợ việc phát giác, đem sự thể tâu lên. Vua Minh Mạng giận lắm, lập tức sai tống giam bọn Tính ở vệ Cẩm y, cách chức, giao xuống Bộ Hình xử nghiêm. Lúc án thành, đều xử trảm giam hậu (án chém nhưng cho hoãn thi hành án).

Với tội trá ngụy ở mức nhỏ, triều Nguyễn cũng áp dụng hình thức phạt giáng chức, như vào năm Gia Long thứ 15 (1816), viên Thống chế Thị nội Võ Viết Bảo đã tự ý cho lính dưới quyền về thăm nhà. Việc bị phát giác, vua vời Viết Bảo đến hỏi, ông này không chịu nói thật. Vua sai giam xuống ngục, Bộ Hình xin xử ông này tội đồ. Vua nói: “Viết Bảo thấy ta gạn hỏi, sợ hãi thác nhời, không phải là cố ý dối trá. Vả trải chịu triệu hỏi đã đủ răn rồi, vậy tạm khoan cho, giáng chức là được”, rồi giáng chức xuống làm Cai cơ.

Một hình thức phạt khác là không cho hưởng lương. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), Thượng thư Lại Bộ là Trần Lợi Trinh, Thị lang là Phan Bá Đạt làm việc sai lầm, muốn che giấu đi, đến lúc việc phát giác mới làm sớ xin nhận tội đều bị phạt 3 tháng lương. Khi xử vụ này, Vua Minh Mạng bảo thị thần rằng: "Trẫm đãi thần hạ như cùng một thân thể không phân cách khác gì cha con trong một nhà. Muốn khiến trên dưới thông hiểu nhau để nên chính trị tốt, thì nếu ai có sự lầm lỗi, nên nói thật, bằng để lòng sợ hãi, tìm cách che giấu, há chẳng thành cái thói dối trá che đậy ư? Trẫm vẫn không muốn che việc như thế. Trăm quan các ngươi nên thể tất ý ấy".

Đặc biệt, năm Minh Mạng thứ 10 (1829), đội Tiểu sai có tên Phan Ngọc Lý, trước đã vì tội trá mạo bị phát vãng tới Ai Lao làm binh, nhưng trốn đi Hải Dương, đổi tên là Hồ Đăng Trị giả dối xưng là được sai đi xét hỏi, sách nhiễu người ta. Thị vệ là Lê Kim Trợ bắt được đem nộp Bắc Thành xử chém. Kim Trợ được thưởng 30 lạng bạc.

Sau đó, Vua Minh Mạng bảo Bộ Hình rằng: “Bọn trá mạo, bày đặt sinh sự, tất có kẻ lại bắt chước làm như Phan Ngọc Lý. Nên dụ cho thành thần thông sức quan lại địa phương trong hạt phải dò xét mà bắt trị tội”.

Lê Tiên Long

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/doi-vua-toi-tu-i785693/